Sign In

VĨNH PHÚC TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX (THỜI MẠC 1527 - 1592)

07/09/2011
 

Chọn cỡ chữ A a  

 

 

  In trang

VĨNH PHÚC TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX (THỜI MẠC 1527 - 1592)

Những năm đầu của thế kỉ XVI đánh đấu sự suy yếu của triều đại nhà Lê. Sau những năm tháng thịnh trị dưới thời Lê Thánh Tông, tình hình kinh tế - xã hội của nước Đại Việt bước đầu đã có dấu hiệu khủng hoảng. Điều đó được phản ánh qua sự khủng hoảng triều chính và các cuộc khởi nghĩa nông dân với quy mô lớn. Đến đầu thế kỉ XVI hầu hết các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại, song nó đã góp phần đẩy nhanh quá trình suy vong của triều Lê cũng như mở ra cơ hội cho Mạc Đăng Dung và chính quyền họ Mạc lên nắm quyền lực vào năm 1527. Tuy nhiên, các lực lượng trung thành với nhà Lê được thành lập phía nam Thanh Hóa tạo thành một thế lực mới đối chọi với triều đình nhà Mạc, từ đó mở ra cục diện chính trị Nam - Bắc triều. Nằm một vị trí trọng yếu thuộc khu vực tây bắc của kinh thành Thăng Long, vùng đất Vĩnh Phúc thế kỉ XVI nhanh chóng trở thành địa điểm có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến tranh Nam - Bắc.

Từ giữa thế kỉ XVI, nhà Mạc liên tiếp gặp phải thất bại, trong khi đó phạm vi ảnh hưởng của triều đình nhà Lê - Trịnh phía nam lan rộng ra vùng đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ.

Trong những năm từ 1557 - 1569, nhà Lê nhiều lần mở các cuộc tấn công ra các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, Văn Giang (trấn Sơn Nam), các huyện Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, An Dương (trấn Hải Dương) rồi lại rút về Thanh Hoá. Thậm chí, Trịnh Kiểm còn sai các tướng lĩnh thân tín đóng giữ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang làm chủ khu vực miền núi phía bắc liên tiếp tấn công vào phủ Phú Bình (bao gồm huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay). Trước tình hình đó, đầu năm 1560, Mạc Phúc Nguyên phải sai tướng đem quân giữ thành Thăng Long, bên ngoài đóng đồn một dải từ dọc sông về phía tây, trên từ Bạch Hạc, dưới đền Nam Xang, doanh trại gần nhau, thuyền bè san sát, ban ngày thì phất cờ đánh trống báo nhau, ban đêm thì đốt lửa làm hiệu cho nhau đề chống giữ.

Sau khi Trịnh Kiểm mất, cuộc tranh giành quyền lực giữa Trịnh Tùng và Trịnh Cối đã khiến lực lượng quân đội nhà Lê bị suy yếu, tạo điều kiện cho một cuộc phản công lớn từ phía nhà Mạc. Năm 1570, hai cánh quân thuỷ bộ dưới sự chỉ huy của Mạc Kính Điển tiến vào kinh đô của nhà Lê ở Thanh Hoá, trong đó một cánh quân theo đường bộ đi từ Thăng Long ngược lên vùng đất phía tây bắc, theo con đường thượng đạo xuôi xuống phía nam, áp sát miền tây Thanh Nghệ.

Tuy nhiên, về căn bản các thế lực quân sự của cựu thần nhà Lê vẫn giữ vững được một số vùng đất thượng nguồn phía tây và tây bắc thuộc khu vực các trấn Tuyên Quang, Hưng Hoá tạo thành một mối nguy hiểm trực tiếp đe doạ Thăng Long. Vũ Văn Mật Tuyên Quang thường xuyên cho quân lính xuống cướp phá vùng Hưng Hoá. Năm 1587, nhà Mạc phải sai các xứ trong nước đắp luỹ đất và trồng tre, trên từ sông Hát (nay là khu vực huyện Mê Linh) xuống tới sông Hoa Đình, huyên Sơn Minh, kéo dài đến vài trăm dặm để đề phòng. Quân đội triều Mạc dù  những giai đoạn chiếm ưu thế đã nhiều lần bình định các lực lượng nhưng không có hiệu quả. Nhà Mạc chỉ có thể làm chủ được toàn bộ khu vực châu thổ phía đông của sông Hồng ra đến biển. Trấn Sơn Tây và toàn bộ vùng đất Vĩnh Phúc hiện nay gần như trở thành chốt chặn quan trọng cho tuyến phòng thủ kinh thành.

Từ cuối những thập niên 80, trên cơ sở thống nhất được các lực lượng chính trị - quân sự và đẩy lui được các đợt xâm lấn của quân Mạc, và nhất là sau khi Mạc Kính Điển, một tướng lĩnh tài giỏi của nhà Mạc qua đời, dưới sự chỉ huy của Trịnh Tùng, quân đội nhà Lê - Trịnh đã hoàn toàn nắm thế chủ động trên chiến trường. Trận chiến quyết định cục diện được diễn ra trên phòng tuyến sông Hồng của nhà Mạc thuộc các huyện Phúc Thọ, Đan Phượng và Mê Linh vào mùa đông năm 1591. Trước sức tấn công mãnh liệt của quân đội nhà Lê, Mạc Mậu Hợp sợ đến vỡ mật, xuống thuyền vượt sông mà chạy. Trên đà thắng lợi, Trịnh Tùng đốc thúc quân lính tiến vào Thăng Long.

Sau khi làm chủ kinh đô, quân đội nhà Lê - Trịnh liên tiếp tổ chức các chiến dịch quân sự nhằm bình định các khu vực lân cận xung quanh kinh thành. Tháng 4 năm 1492, tướng Mạc là Mạc Ngọc Liễn dàn thuyền, cắm cọc gỗ cửa sông Hát, đắp luỹ đất trên bờ sông làm thế hiếm vững để chống cự song cuối cùng cũng phải bỏ thuyền lên bộ chạy đến chân núi Tam Đảo dựa thế núi mà cầm cự. Nhưng kể cả khi lực lượng chủ yếu của triều Mạc thất bại và Mạc Mậu Hợp bị bắt thì các lực lượng địa phương của nhà Mạc vẫn còn khá mạnh.

Trong các lực lược này có Đức Quốc Công chiếm giữ Hạ Hoà, Khánh Quốc Công chiếm giữ Sơn Dương, Văn Quốc Công chiếm giữ huyện Tam Dương. Năm 1594, Việt Quốc Công, một tướng lĩnh cũ của nhà Mạc tự mặc áo hoàng bào dấy binh chiếm giữ huyện Tam Dương, cướp bóc nhân dân. Trịnh Tùng phải sai phó tướng Bạt Quận Công Phạm Doãn Sinh đem quân bản bộ trấn giữ huyện Tam Nông để giữ yên dân Hưng Hoá. Ngay năm sau 1595, bọn Thắng Quận Công, Quế Quận Công tập hợp được hơn 500 quân lại đi cướp bóc huyện Tam Dương. Khi ấy huyện quan đem nhiều binh dân, chặn đón đường hiểm yếu chém được 46 thủ cấp của giặc. Như vậy là cuộc chiến tranh Nam - Bắc kéo dài suốt bảy thập kỉ dù đã chấm dứt trên danh nghĩa nhưng cả một dải các trấn Sơn Tây, Thái Nguyên, Hưng Hoá vẫn chưa yên. Nhà Mạc mặc dù phải chạy lên Cao Bằng song cho tới trước khi suy vong hoàn toàn vào giữa thế kỉ XVII vẫn thường xuyên hành quân về cướp bóc các phủ Lâm Thao, Vĩnh Tường.

Dù phải trải qua những năm tháng chiến tranh, song chúng ta vẫn có thể nhận ra những biến chuyển trong đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc gia đã có ảnh hưởng nhất định đến trọng trấn phía tây bắc của kinh đô Thăng Long. Cho đến thế kỉ XVI, bên cạnh nông nghiệp thì các làng nghề thủ công được ra đời và phát triển khá mạnh như các làng gốm Kẻ Cánh (Tam Canh, Bình Xuyên), nghề đục đá cối Hải Lựu (Lập Thạch). . . Đời sống văn tư tưởng của nhân dân vùng đất Vĩnh Phúc bấy giờ ít thấy có tài liệu ghi chép.

Những hiểu biết được phản ánh qua các văn bia ít ỏi thời Mạc đã được tìm thấy trên mảnh đất này.

Các tấm bia Đại Đồng tbịĐại Đồng Linh Am nhi tự bi dựng vào các năm Hưng Trị 1 (1588) và Hưng Trị 3 (1590) tại chùa Đại Đồng xã Cẩm Viên, huyện Yên Lạc cho biết việc các nho sinh và quan lại tại địa phương đã bỏ công bỏ của xây dựng và tôn tạo ngôi chùa, xây thêm các công trình công cộng. Hai tấm bia Phượng tường tự và Phượng Tường tự bi kí đều được dựng chùa Phượng Tường xã Kiên Cương, huyện Vĩnh Tường vào năm Đoàn Thái 2 (1587), cuối đời Mạc Mậu Hợp cho biết chùa Phượng Tường là một danh lam, bị phá huỷ sau nạn binh đao, nay đã được khôi phục lại nhưng quy mô còn nhỏ. Nhân dân địa phương cùng với nhiều quý tộc của nhà Mạc như Đô uý Thái bảo Mạc Ngọc Liễn, Trưởng công chúa là Mạc Ngọc Lâm, Quận chúa Mạc Ngọc Lương cùng nhau góp tiền sửa chữa, mua ruộng tam bảo. Nhân dân tạ ơn ấy bèn khắc bia lưu truyền mãi mãi. Bia Trùng tu Bào Quang tự bi kí dựng năm Đoàn Thái 2 (1587) và Tân tạo ngọc hoàng chư Phật Bảo Quang tự bi kí dựng năm Hưng Trị 4 (1591) tại chùa Bảo Quang, xã Thượng Trung, huyện Vĩnh Tường ghi lại ngôi chùa Bảo Quang, một ngôi chùa cô nổi tiếng huyện Bạch Hạc, sau nạn binh đao đã được tu sửa, sau đó được bổ sung làm mới thêm tượng thờ. Tất cả công việc này đều do những người dân địa phương thực hiện.

Rõ ràng, qua những thông tin ít ỏi có thể thấy tuy phải gánh chịu sự tàn phá của chiến tranh, vùng đất Vĩnh Phúc thế kỉ XVI đã có những biến đổi rõ rệt. Đời sống kinh tế dần được hồi phục. Với vai trò là cầu nối giữa vùng thượng du với Thăng Long và vùng hạ châu thổ đã tạo ra những cơ hội thay đổi của vùng đất này được thể hiện trong đời sống tín ngưỡng, tâm linh. Phật giáo ngày càng có ý nghĩa quan trọng và có ảnh hưởng tới cả một bộ phận quý tộc. Tất cả những điều đó cho thấy sự hiện diện đầy đủ của vùng đất này trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của quốc gia Đại Việt.

   
   
   
Số bản ghi trên trang  
1-6 / 8 bản ghi

Số lượt truy cập: 45.200.081

EMC Đã kết nối EMC