KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC NGUYÊN- MÔNG
- Cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258
Thế
kỉ XIII, các bộ lạc du mục (Thát Đát, Tác Ta) bước vào giai đoạn thống
nhất, dần hình thành đế quốc Mông Cổ. Ngay trong quá trình thống nhất,
Mông Cổ đã tổ chức các đạo quân xâm lược, không ngừng bành trướng lãnh
thổ. Sau khi đánh chiếm Đại Lí (Vân Nam, Trung Quốc), Mông Cổ ráo riết sửa soạn xâm lược Đại Việt nhằm chiếm đất đai, tạo bàn đạp và thế gọng kìm đánh lên Nam Tống.
Trước
âm mưu xâm lược của Mông Cổ, quân dân nhà Trần đã tích cực chuẩn bị
kháng chiến. Vùng đất Vĩnh Phúc - với địa hình trải theo các triền sông
lớn (sông Lô, sông Hồng) - trở thành vị trí hết sức xung yếu, từ Vân Nam
(Trung Quốc) có thể theo ngả sông Hồng, qua vùng đất này trước khi vào
kinh đô Thăng Long cũng như tiến sâu vào lãnh thổ Đại Việt. Vì thế, nhà
Trần từ sớm đã chú ý phòng ngự, lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị
đánh giặc. Tháng 10 năm 1257, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các
tướng điều quân thuỷ bộ lên miền biên giới tây bắc. Ngã ba Bạch Hạc
nhiều lần được Trần Quốc Tuấn chọn là nơi luyện tập thủy quân. Trần Nhật
Duật cũng cho đóng đại bản doanh tại Bạch Hạc, chỉ huy lực lượng quân
đội, án ngữ vùng Việt Trì.
Đầu
năm 1258, khoảng 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy,
theo lưu vực sông Hồng phía tả ngạn và hữu ngạn sông Thao tiến vào Đại
Việt. Đường tả ngạn qua vùng đất Hà Tuyên xuống Bạch Hạc (Việt Trì).
Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hoá (Yên Bái, Vĩnh Phúc) cùng xuống Bạch
Hạc. Hai đạo quân nhỏ này có nhiệm vụ đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo
sau là đạo quân khác do con trai của Ngột Lương Hợp Thai là Aju (A
Thuật) chỉ huy. Cuối cùng là đạo quân do chính Ngột Lương Hợp Thai trực
tiếp cầm đầu.
Tháng
1 năm 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc.
Sau đó chúng theo đường bộ, định tiến về Thăng Long qua ngả Bình Lệ
Nguyên. Tại Bình Lệ Nguyên (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), trên sông Cà
Lồ, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc. Bình Lệ Nguyên
chính là trận đầu tiên quân dân Đại Việt đối đầu trực diện với quân Mông
Cổ. Tuy nhiên, địa hình Bình Lệ Nguyên lại khá thuận lợi cho kị binh
Mông Cổ phát huy sở trường. Vì thế, trận địa của quân dân nhà Trần bị
lấn dần. Đạo quân của tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần) được lệnh vừa đánh vừa
rút.
Trong
các trận đánh quân Mông Cổ trên vùng đất Vĩnh Phúc, bên cạnh các đội
quân chính quy của triều đình, lực lượng dân binh của các thổ tù, chủ
trại địa phương đã góp phần không nhỏ trong việc cản bước quân giặc.
Tiêu biểu là các đội quân của Hà Bổng, Hà Đặc.
Tuy
nhiên, trước sức mạnh của địch, nhận thấy khó giữ được Thăng Long, để
bảo toàn lực lượng, vua tôi nhà Trần quyết định rút lui khỏi kinh thành.
Sau khi củng cố lực lượng, ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân Đại
Việt từ sông Thiên Mạc mở đợt phản công đánh địch tại bến Đông Bộ Đầu
(bến sông Hồng cạnh kinh thành Thăng Long). Quân Mông Cổ bị đánh bật
khỏi kinh thành Thăng Long, rút chạy theo ngả sông Hồng về Vân Nam.
Khi
tàn quân Mông Cổ chạy qua đất Quy Hóa (miền tây Vĩnh Phúc, giáp với Yên
Bái), Hà Bổng đã tập hợp dân binh các làng tổ chức mai phục. Chiến
thắng của các trận phục kích ở Quy Hóa có ý nghĩa to lớn, góp phần khích
lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân Đại Việt.
Ngày
nay, vùng đất Bình Xuyên vẫn còn lưu lại những tên gọi địa danh ghi dấu
trận chiến năm 1258. Tại đền thờ một bộ tướng của Hai Bà Trưng ở xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên) còn đôi câu đối, trong đó có một vế nhắc lại chiến
công trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất này: "Trần phá Nguyên binh vạn
cổ anh linh lưu bất tử" (Nhà Trần đánh quân Nguyên, anh linh ngàn năm
bất diệt).
- Cuộc kháng chiến lần thứ hai năm 1285
Sau
thất bại năm 1258, quân Mông Cổ vẫn nuôi dã tâm xâm lược Đại Việt. Năm
1279, Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt lên ngôi, thiết lập triều
Nguyên. Triều Nguyên nhiều lần cho sứ giả sang dụ dỗ, đe dọa vua tôi
triều đình Đại Việt. Nhà Trần đã khôn khéo đấu tranh, kéo dài thời gian
hòa hoãn để chuẩn bị về mọi mặt. Năm 1279, mượn cớ đánh Chiêm Thành, nhà
Nguyên âm mưu đưa quân vào Đại Việt. Năm 1282, quân Nguyên do Toa Đô
chỉ huy vượt biển đánh Chămpa, để từ đó đánh lên Đại Việt từ phía nam.
Cuối tháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên (gồm cả cánh quân đánh Chămpa
năm 1282) từ hai hướng Vân Nam và Lạng Sơn vượt biên giới tấn công Đại
Việt.
Trong
thời gian này, nhà Trần đã mở hội nghi Bình Than (1282) và Diên Hồng
(1285), phát động và cổ vũ tinh thần toàn quân, toàn dân tham gia đánh
giặc.
Đạo quân Nguyên từ Vân Nam
do Nạp Tốc Đạt Đinh thống lĩnh theo lưu vực sông Chảy tiến xuống, bị
quân ta do tướng Trần Nhật Duật chỉ huy chặn đánh ở Thu Vật (Yên Bình).
Song, do thế giặc mạnh và với phương châm chỉ đánh tiêu hao nhằm cản
bước tiến của địch để bảo toàn lực lượng, Trần Nhật Duật rút quân về
Bạch Hạc. Tại đây, ông tiếp tục thực hiện chiến thuật trên.
Chiếm
được Thăng Long, nhưng quân Nguyên không tiêu diệt được bộ chỉ huy cuộc
kháng chiến, lại gặp nhiều khó khăn về lương thực, khí hậu. Ngược lại,
quân đội Đại Việt vẫn bảo toàn được lực lượng, tạo thời cơ để tổ chức
cuộc phản công chiến lược. Chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương đã
buộc Thoát Hoan phải rút quân khỏi kinh thành Thăng Long, theo hướng
Lạng Sơn rút quân về nước. Trên đường rút chạy, quân Nguyên tiếp tục bị
quân ta chặn đánh, đến mức Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát
chết.
Đạo quân do Nạt Tốc Lạt Đinh chỉ huy rút chạy về Vân Nam
theo hướng sông Lô, khi qua địa phận Phù Ninh, bị quân Hà Đặc đuổi đánh
đến vùng Quảng Nạp (A Lạp). Hà Đặc hi sinh, em Hà Đặc là Hà Chương nhân
đêm tối, tiếp tục tập kích vào trại giặc.
- Cuộc kháng chiến lần thứ ba năm 1288
Mặc
dù đã hai lần thất bại song quân Nguyên vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược
nước ta. Để chuẩn bị cho lần viễn chinh thứ ba này, Hốt Tất Liệt đã huy
động hàng chục vạn quân, chia làm 3 mũi tiến vào từ 3 phía: Vân Nam,
Lạng Sơn, đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp vượt biển, qua Quảng Ninh
ngược sông Bạch Đằng để vào nội địa.
Ngả
sông Hồng, đạo quân Mông Nguyên do Ái Lỗ (A Rục), A Tri và Mông Khu Đai
chỉ huy nhiều lần bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh. Trước thế mạnh
ban đầu của giặc, Trần Nhật Duật đã chủ động rút quân từ Tuyên Quang về
lập phòng tuyến chống địch tại Bạch Hạc. Ngày 11 tháng 12 năm 1287, sau
những trận chiến đấu quyết liệt tại Bạch Hạc, Trần Nhật Duật tiếp tục
rút lui.
Cũng
như hai lần trước, quân Nguyên tràn vào Thăng Long, song không tiêu
diệt được bộ chỉ huy cuộc kháng chiến, quân Nguyên hung hãn tấn công
xuống Thiên Trường. Do mất toàn bộ đoàn thuyền lương ở Vân
Đồn, Thoát Hoan lo thiếu lương thực, sợ bị tiêu diệt, vội vã tính
chuyên tháo chạy. Theo đúng dự tính của Trần Hưng Đạo, quân dân Đại Việt
đã tổ chức phục kích, đánh tan cánh quân thủy trên sông Bạch Đằng. Hàng
vạn quân Mông Nguyên bị tiêu diệt, bị bắt sống, (trong đó có các tướng Ô
Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ) thu về hơn 400 chiến thuyền.
Chiến thắng Bạch Đằng đã đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của quân Mông Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Trong
ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên, trên vùng đất Vĩnh Phúc, hưởng
ứng lời kêu gọi của triều đình, đã có nhiều dân người đứng lên, tập hợp
và tổ chức dân binh phục kích, tiêu hao nhiều sinh lực địch.
Ngày
nay, trên địa bàn Vĩnh Phúc còn truyền tụng những câu chuyện về bảy anh
em họ Lỗ, ba ông quận tham gia đánh giặc Nguyên. Thần tích ghi 7 anh em
họ Lỗ quê ở xã
Bồ Lí, tổng Yên Dương, huyện Tam Dương, gia cảnh nghèo khổ, phải kiếm
củi nuôi nhau. Khi nghe tin quân Nguyên xâm lược, liền bỏ nghề kiếm củi,
tập hợp dân làng đi đánh giặc, địa bàn hoạt động của họ suốt từ tả ngạn
sông Lô đến tả ngạn sông Hồng, từ Bạch Hạc đến Chèm (Hà Nội ngày nay).
Sau khi đánh giặc xong, lại trở về quê cũ kiếm củi. Sau bảy anh em được
lập đền thờ ở các xã: Đình Thúy, Gẩu, Tích Sơn (thành phố Vĩnh Yên), đình Hướng Đạo, Lai Sơn, Nhân Mĩ, Long Đậu, Láng (huyện Tam Dương).
Sau
kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên, trên vùng đất Vĩnh Phúc, dọc
các triền sông Lô, sông Hồng - con đường giặc ngoại xâm đã tràn qua,
làng xóm bị tàn phá khá nặng nề. Nhân dân Vĩnh Phúc cùng với quân dân cả
nước lại bắt tay vào công cuộc khôi phục đất nước, quê hương.