TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ , KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều đình do Đào Cam Mộc khởi xướng, tôn quan Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra triều Lý. Mùa thu năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên thành Thăng Long. Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt.
Thời
Lý, cả nước được chia thành 24 lộ, phủ, miền núi có các châu. Tuy
nhiên, do cách thức quản lí và chính sách của triều đình, cách gọi lộ,
phủ, châu không thống nhất. Ở vùng đồng bằng chủ yếu là lộ hay phủ, ở
miền núi gọi là châu hay đạo. Dưới phủ là huyện, dưới huyện có các
hương.
Vĩnh
Phúc thời kì này thuộc lộ (châu) Quốc Oai (đời Trần Thuận Tông đổi gọi
là trấn Quốc Oai, gồm một phần đất tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Hà Tây trước
đây) cùng một phần châu Chân Đăng (phạm vi gồm hai tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc hiện nay).
Triều
Lí kế thừa thành quả của các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê tiếp tục xây dựng
và không ngừng củng cố bộ máy triều chính, ban hành luật pháp, tổ chức
quân đội, phát triển kinh tế...Đối với các thổ hào, tù trưởng địa
phương, triều Lí thi hành chính sách chiêu dụ, chủ trương cai trị ràng
buộc lỏng lẻo, song kiên quyết trấn áp những hành động chống đối, cát
cứ. Vĩnh Phúc là vùng đất trọng yếu, tiếp giáp với kinh thành Thăng Long
trên con đường hành quân lên vùng Tây Bắc, vì thế rất được triều Lí coi
trọng.
Năm
Thuận Thiên 15 (1024), vua Lí Thái Tổ hạ chiếu cho Khai Thiên vương
Phật Mã cầm quân đi đánh Phong Châu. Năm Thông Thụy 4 (1037), Lí Thái
Tông tiếp tục thân chinh "đi đánh đạo Lâm Tây, sai Khai Hoàng vương
(Nhật Tông) làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình
Nguyên, cho Phụng Càn vương (Nhật Trung) làm kinh sư lưu thủ. Quân đi từ kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được".
Bên
cạnh các cuộc hành quân trấn áp, nhằm thắt chặt sự ràng buộc các thủ
lĩnh, hào trưởng địa phương với chính quyền trung ương, nhà Lý đã nhiều
lần phong chức tước, gả các công chúa và ngược lại con em họ nhiều người
được các vua Lý lấy làm vợ.
Nhiều sự kiện được sử ghi lại liên quan đến châu Chân Đăng cho thấy mối quan tâm đặc biệt của triều Lý đối với vùng đất này. Đại Việt sử kí toàn thư chép: tháng 2 năm 1033, châu Định Nguyên làm phản, vua Lý Thái Tông thân chinh tiễu phạt, đóng lại ở
châu Chân Đăng, có người họ Đào dâng con gái, được vua nhận làm phi.
Tháng 3 năm Bính Tị (1036), vua Lý Thái Tông gả công chúa Kim Thành cho
châu mục châu Phong là Lê Tông Thuận. Con gái của Phụng Càn vương là
công chúa Ngọc Kiều, được Lí Thánh Tông nuôi trong cung, sau gả cho châu
mục châu Chân Đăng. Vua Lý Thần Tông (1116 - 1137) có 4 người vợ, bà
thứ nhất là Cảm Thánh Hoàng hậu (mẹ đẻ của vua Lí Anh Tông), bà thứ tư
là Phụng Thánh phu nhân đều là con gái châu mục châu Chân Đăng.
Để tỏ lòng kính thuận, cũng là đáp lại ân huệ của nhà vua, châu mục Chân Đăng thường dâng biếu vua Lý sản vật địa phương.
Dưới
thời Lý nhà nước rất chăm lo sản xuất nông nghiệp. Nghi lễ cày ruộng
tịch điền có từ thời Tiền Lê được các vua đầu triều Lý duy trì và rất
coi trọng. Về ruộng đất, trên danh nghĩa, quyền sở hữu thuộc về nhà
nước, triều đình trực tiếp quản lí các loại ruộng quốc khố, đồn điền,
tịch điền, ruộng đất công làng xã, đồng thời sử dụng để ban thưởng phân
phong cho các công thần. Ngoài ra, ruộng chùa là một loại hình sở hữu
ruộng đất phổ biến ở thời
kì Phật giáo phát triển thịnh đạt. Năm 1086, nhà Lý phân biệt chùa làm 3
loại: đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam. Cách phân biệt này
có lẽ cũng phản ánh sự khác nhau về kinh tế giữa các chùa thời ấy. Thực
tế thì ruộng chùa thời Lý chiếm một diện tích không nhỏ.
Bên
cạnh ruộng công, thời Lý, chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân đã khá phổ
biến. Hiện tượng mua bán, kiện tụng và cúng tặng ruộng đất đã xuất hiện ở nhiều nơi. Nhà Lí đã ban hành nhiều điều luật công nhận quyền tư hữu này. Năm
1123, nhân việc cấm giết trâu bò nhà Lí ra lệnh: "Từ nay về sau cứ 3
người làm 1 bảo, không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì bị trị
tội theo hình luật”. Các năm sau (1137, 1143), nhà Lí lại tiếp tục khẳng
định biện pháp cứ “3 nhà làm 1 bảo” liên kết với nhau, kiểm tra
mùa màng và không được tự tiện giết trâu bò. Việc kiểm tra chặt chẽ,
thường xuyên số lượng dân đinh, số lượng hộ gia đình gắn liền với việc
bảo vệ sức kéo trâu bò là một chính sách nông nghiệp tích cực trong điều
kiện nước ta.
Thời
Lí, thủ công nghiệp khá phát triển. Tại Vĩnh Phúc, nghề gốm phát triển
khá mạnh. Người thợ nung gốm Vĩnh Phúc đã đúc kết được nhiều kinh
nghiệm, kĩ thuật tinh xảo, đã làm được những viên gạch xây tháp Đạo Trù,
tháp Kim Tôn, đặc biệt là tháp Bình Sơn rất đẹp. Tại Phong Châu, triều
đình mở xưởng luyện sắt, do nhà nước quản lí. Công xưởng này thiết lập
trên khu mỏ sắt lộ thiên tại Thanh Vân, Đạo Tú (hiện nay thuộc huyện Tam
Dương)
Đạo
Phật được truyền bá vào vùng đất Vĩnh Phúc từ sớm. Thời Lý, khi Phật
giáo phát triển, nhiều ngôi chùa nổi tiếng được xây dựng trên đất Vĩnh
Phúc: chùa Cói (nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên), chùa Yên
Nhiên (nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường), chùa Then (nay thuộc xã
Tam Sơn, huyện Lập Thạch)... Tháp Bình Sơn (Tam Sơn, Sông Lô) cao
16,115m, chân đế mỗi cạnh 4m có 11 tầng (không kể tầng bệ), là công
trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng. Kết cấu và kiến trúc tháp khá đặc
biệt, hoàn toàn bằng đất nung lắp ghép. Toàn bộ thân và móng đều bằng
gạch. Bốn mặt tháp trang trí đầy hoa văn khắc chìm hoặc đắp nổi các hình
hoa sen, lá đề, rồng, run, sư tử hí cầu, hoa chanh, dây leo.
Từ
giữa thế kỉ XII, triều chính nhà Lí dần suy yếu. Kinh tế, nhất là nông
nghiệp, ngày càng sa sút, các phe phái phong kiến đánh lẫn nhau. Vua Lí
vì thế phải nhiều lần chạy loạn và
nương tựa vào thế lực họ Trần. Từ thế kỉ XIII, họ Trần dần nắm quyền
hành trong triều. Năm 1226, Trần Thủ Độ ép Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi
cho chồng là Trần Cảnh. Triều Lí kết thúc, triều Trần được thành lập
(1226 - 1400). Nhà Trần áp dụng nhiều biện pháp để khôi phục sức mạnh
của chính quyền trung ương, củng cố nền thống trị của dòng họ, khôi phục
kinh tế, ổn định tình hình xã hội. Các vua Trần truyền ngôi cho con
sớm, lên làm Thái thượng hoàng, cùng với vua trẻ lo việc chính sự.
Về
mặt hành chính, năm 1242, nhà Trần đổi 24 lộ, phủ thời Lí thành 12 lộ
(nhà Hồ đổi các lộ thành trấn). Dưới lộ (hay trấn) là các phủ, được phủ
là châu, dưới châu là huyện, dưới huyện là các xã. Xã là đơn vị hành
chính cơ sở, đứng đầu là Đại tư xã (từ ngũ phẩm lên), Tiểu tư xã (từ ngũ
phẩm xuống), đặt xã quan, xã chính, xã sử, xã giám.
Vùng
đất Vĩnh Phúc cho đến cuối thời Trần thuộc vào các châu Tam Đới (sau
đổi thành phủ Vĩnh Tường) lộ Đông Đô và trấn Tuyên Quang. Thuộc châu Tam
Đới nay có các huyện Yên Lạc, huyện Lập Thạch; thuộc trấn Tuyên Quang
nay có huyện Tam Dương (vốn là huyện Dương). Thời Hồ và thuộc Minh, về
cơ bản đơn vị hành chính Vĩnh Phúc không thay đổi nhiều.
Về
kinh tế, đầu triều Trần, nông nghiệp được triều đình quan tâm phát
triển. Công cuộc khẩn hoang, xây dựng điền trang cũng được chú ý.
Về
quân sự, nhà Trần rất chăm lo xây dựng và củng cố quân đội theo phương
châm “binh lính cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”. Ngoài lực lượng quân đội
chính quy, nhà Trần cho phép các vương hầu, các chủ trại, phụ đạo tự
lập quân đội riêng. Ở các xã, nhà Trần thành lập lực lượng dân binh lo
bảo vệ trật tự trị an, khi có giặc, tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương.