ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Những
biến động trong đời sống kinh tế - chính trị của vùng đất Vĩnh Phúc
trong các thế kỉ XVII - XVIII không những không làm suy giảm sự phát
triển văn hoá của các cộng đồng dân cư nơi đây mà thực tế chính từ những
khó khăn thử thách ấy, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân lại càng
phong phú đa dạng, đặc biệt là đời sống tôn giáo tín ngưỡng. Bên cạnh
Nho giáo được chính quyền nhà Lê duy trì như một bệ đỡ tư tưởng thì
trong giai đoạn này đánh dấu sự phục hồi trở lại của các tôn giáo truyền thống, đặc biệt là Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
Sự
phát triển của đạo Phật trên vùng đất ngã ba sông được gắn liền với các
cư dân thường xuyên phải đối phó với thiên tai sông nước, của những
thương nhân buôn bán trên tuyến sông Hồng với đầy những rủi ro bất trắc
đã tạo nên hệ thống chùa chiền được xây dựng với quy mô lớn ở hầu
khắp các làng xã. Việc xây dựng chùa chiền và gửi hậu không chỉ có các
tầng lớp bình dân mà nhiều quan lại, quý tộc của chính quyền nhà Lê cũng
tham gia. Bia Thanh Tước Sùng Ân bi kí tại chùa Sùng Ân,
xã Thanh Tước, huyện Mê Linh dựng vào năm Hoàng Định 1 (1601) đã ghi lại
việc Bình An Vương Trịnh Tùng và nhiều quan lại cao cấp của triều đình
tham gia đóng góp tiền của xây dựng. Phật giáo dù không còn đóng vai trò
là tư tưởng trong các thiết chế nhà nước nhưng những triết lí của nó
dường như vẫn để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh của
mọi tầng lớp xã hội.
Bên
cạnh Phật giáo, thời kì này cũng đánh dấu sự phát triển nở rộ của các
hình thức tín ngưỡng dân gian truyền thống như tín ngưỡng thờ thành
hoàng, thờ cúng tổ tiên, những người anh hùng có công với đất nước và
tín ngưỡng thờ tự
nhiên vẫn được duy trì. Đền Bạch Trì xã Long Trì, huyện Tam Dương ghi
lại thần tích ba vị đại vương được thờ ở đền đã có công đánh giặc Hán.
Điện Bắc Cung tại xã Thư Xá, huyện Yên Lạc là một di tích có từ lâu đời
thờ thần Tản Viên đã được tu sửa nhiều lần. Hiện tượng gửi hậu phổ biến ở các làng xã trở thành một tập tục khá quen thuộc của nhân dân địa phương.
Song thành tựu nổi bật nhất về văn hoá của Vĩnh Phúc trong các thế kỉ
XVII - XVIII chính là sự phát triển của nền giáo dục Nho học. Người ta
có thể nhận ra ở hầu
hết các làng xã và các phủ huyện đều xây dựng văn chỉ với quy mô lớn
như là những hình thức tôn vinh những người trí thức Nho giáo. Nhiều
làng còn dành ra những khoản ruộng công của mình để làm học điền cho
những người theo nghiệp khoa cử. (Bia
Tiên hiền từ vũ lập bi kí tạo năm Vĩnh Thịnh 2 (1706) dựng tại văn chỉ
xã Bình Hoà, huyện Tam Dương ghi nội dung xã Bình Khang, An Khang dựng
chung một văn chỉ để thờ các bậc tiên hiền và những người có đỗ đạt
trong hàng xã có bài thơ ca tụng đạo học được chấn hưng.
Bia Từ vũ bi kí tạo năm Cảnh Hưng 44 (1783) ở văn từ xã tại thôn Đông xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc ghi việc xây dựng ván chỉ xã Vĩnh Mỗ, huyện An Lạc phủ Tam Đới.
Bia
Học xá điền thổ bi kí tạo năm Chính Hoà 23 (1702) dựng tại văn chỉ Văn
Trưng phủ Vĩnh Tường có nội dung ca ngợi nền quốc học, được thịnh hành
khắp nơi. Hai xã Văn Trưng và Lăng Trưng muốn có nơi giáo dục nhân tài
đã góp công để xây dựng trường học và để nuôi dưỡng thầy.
(Bia
Hương trại điều lệ bi ở đình xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường dựng vào năm
Cảnh Hưng 28 (1767) ghi lại 7 điều hương lệ của làng trong đó ngay ở điều
thứ nhất ghi việc dân làng trích đất công của xã để dựng hai dãy nhà
học, mỗi dãy 5 gian, mời thầy về dạy học, chung góp 800 quan cổ tiền để
mua 8 mẫu ruộng, trong đó dùng hoa lợi để chi cho học xá và chi cho công
việc của hội tư văn).
Với
ý chí và truyền thống của cả một cộng đồng cư dân đề cao và coi trọng
việc giáo dục, vùng đất này đã sinh ra nhiều trí thức đã có những đóng
góp sự phát triển văn hoá của đất nước trong các thế kỉ XVII - XVIII.
Theo thống kê chưa đầy đủ thì chỉ riêng dưới thời Lê - Trịnh, vùng đất
Vĩnh Phúc ngày nay có 17 người đỗ tiến sĩ, trong đó có nhiều người giữ
nhiều trọng trách quan trọng của đất nước. Sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết về khoa mục cả 5 huyện của phủ Tam Đới thì huyện nào cũng có người đỗ và nhiều nhất là Lập Thạch.