CÁC PHONG TRÀO KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN
Các
cuộc khởi nghĩa nông dân trên vùng đất Vĩnh Phúc và miền núi phía Tây
trong phần lớn thế kỉ XVIII là một trong những hiện tượng phản ánh tinh
thần quật khởi đấu tranh chống lại ách áp bức của các tầng lớp nhân dân
trước chính sách cai trị của nhà Lê. Thực ra, các phong trào đấu tranh
này xuất hiện từ khá sớm, song ban đầu nó chỉ mang tính chất tự phát với
quy mô nhỏ. Hơn thế nữa nhiều cuộc đấu tranh lúc đầu không hoàn toàn là
các cuộc khởi nghĩa mà chủ yếu là các toán cướp được hình thành từ các
lực lượng tàn binh nhà Mạc.
Từ
khoảng thập niên 30 của thế kỉ XVIII, tính chất giai cấp trong các cuộc
đấu tranh đòi quyền sống của những người nông dân, của cộng đồng các
dân tộc thiểu số phải sống dưới nhiều tầng áp bức ngày càng được thể
hiện một cách rõ rệt, nhất là khi họ là những người phải gánh chịu hậu
quả nặng nề cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn để lại. Tiêu biểu nhất là
hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng và Nguyễn Danh Phương.
Nguyễn Dương Hưng vốn là một nhà sư ở vùng
rừng núi Tam Đảo, đã đứng lên cầm đầu cuộc khởi nghĩa tại vùng núi Tam
Đảo. Từ đây, nghĩa quân đã nhiều lần về đánh phá Thăng Long và toả đi
nhiều nơi, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Đến năm 1738, nghĩa quân
đã làm chủ cả miền Tam Đảo rộng lớn với hàng nghìn người tham gia.
Chính quyền nhà Lê - Trịnh phải cử Đốc đồng Sơn Nam Nguyễn Bá Lân cùng
bọn Nguyễn Lịch, Nguyễn Trọng Côn chia đường tiến đánh mới dẹp yên được.
Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng tạm yên chưa lâu thì
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương lại bùng nổ.
Nguyễn Danh Phương (có tên gọi khác là Ngũ Thập, dân gian quen gọi ông là Quận Hẻo) vốn là nho sĩ, quê ở Tiên Sơn, huyện Yên Lạc (Vĩnh Phúc). Lúc đầu ông tham gia cuộc nổi dậy của thủ lĩnh Tế, Bồng ở trấn
Sơn Tây. Khi cuộc nổi dậy này bị đàn áp, thủ lĩnh bị sát hại, Nguyễn
Danh Phương đã kế tục và tập hợp quần chúng còn lại, phát triển thêm lực
lượng đến hàng vạn người. Ông xưng là Thuận Thiên khai vận đại nhân chiếm
cứ vùng Thanh Lãng, Việt Trì, Độc Tôn huyện Tam Dương làm căn cứ. Lợi
dụng chính quyền họ Trịnh đang phải tập trung đối phó với các cuộc khởi
nghĩa diễn ra rộng khắp ở Đàng
Ngoài, từ Việt Trì, lực lượng Nguyễn Danh Phương có điều kiện mở rộng
phạm vi hoạt động và ảnh hưởng sang miền đông bắc trấn Sơn Tây và phần
trấn Thái Nguyên. Ban đầu, triều đình tìm mọi cách dụ dỗ mua chuộc song
Nguyễn Danh Phương đã khôn khéo một mặt dùng lễ vật rất hậu đút lót cho
các quan lại triều đình, mặt khác, nghĩa quân nhanh chóng bố trí đồn
lũy, chiếm cứ nơi hiểm yếu, đặt Đại đồn ở Độc Tôn, Trung đồn ở Hương Canh, Ngoại đồn ở Úc Kì (Phú Bình - Thái Nguyên), lập các Chi đồn lũy riêng nhiều gấp đôi ở xung
quanh…để nuôi dưỡng lực lượng. Trong vùng làm chủ, Nguyễn Danh Phương
cho xây dựng cung điện, sắp đặt quan chức theo quy thức một triều đình,
tổ chức làm ruộng, tích lũy lương thực thực phẩm, thu các loại thuế mỏ,
thuế lâm thổ sản (chè, sơn, tre, gỗ).
Trịnh
Doanh cho “triệu” Nguyễn Danh Phương về triều. Thủ lĩnh nghĩa quân
không nhận lệnh. Doanh sai quân đi đánh. Nguyễn Danh Phương dùng tiền
bạc của cải để vô hiệu hóa bọn tướng Trịnh. Bọn này hám lợi, “dung túng
để bảo toàn lấy thân”. Năm 1744, nghĩa quân tấn công sang Bạch Hạc. Đốc
suất Sơn Tây, Tạo sĩ Văn Đình ức đem vệ binh ở Kinh thành hợp với vài vạn người do bọn hào mục, chức dịch địa phương huy động đến bao vây, đóng quân ở xã Nghĩa Yên. Nguyễn Danh Phương nhân đêm tối đã tổ chức rút lui. Đình ức vừa tránh, vừa tưởng nghĩa quân sợ uy thế quân đội của y, không đánh gấp. Nguyễn Danh Phương đưa quân an toàn về Thanh Lãng.
Nửa
cuối những năm bốn mươi, từ căn cứ Thanh Lãng - Sơn Tây, các toán nghĩa
quân thường bất ngờ tấn công đánh ra các vùng xung quanh, hoặc chọc
thẳng xuống Kinh thành. Khâm định Việt sử thông giám cương mục gọi chung là "giặc Sơn Tây", là hành động "quấy nhiễu cướp bóc".
Tháng 8 năm 1748, nghĩa quân bất ngờ tiến sát xuống vùng Thăng Long. Phủ
chúa Trịnh phải hạ lệnh cho bọn Lê Hữu Kiều, Hà Huân, Vũ Khâm Lân, Ngô
Đính Oánh chia nhau giữ nơi xung yếu, ngày đêm tuần hành xem xét, dự
định mưu kế ngăn ngừa, chống chọi. Trịnh Doanh đã phải điều gấp "lão
tướng" Hoàng Ngũ Phúc đem quân đi tuần hành trấn dẹp phía Sơn Tây nhưng
kế hoạch cũng không thực hiện được bởi Nguyễn Hữu Cầu và các lực lượng ở Sơn Nam đẩy mạnh các hoạt động và thường xuyên đe dọa kinh thành.
Cuối
năm 1749, nghĩa quân từ Bạch Hạc tấn công Cổ Đô - Tiên Phong (Hà Tây).
Hiệp trấn Sơn Tây là Hà Huân dâng thư cấp báo. Trịnh Doanh hạ lệnh cho
Cai cơ Nguyễn Phan, Phó đốc thị Bùi Trọng Huyến đi đánh. Trấn thủ Đinh
Văn Giai xem xét thời cơ tìm cách ứng tiếp. Bọn Nguyễn Phan hội họp các
đạo quân tập kích vào khu căn cứ Thanh Lãng, bắt được Văn Bì, Văn Quảng -
hai em của Nguyễn Danh Phương. Bất ngờ, Nguyễn Danh Phương đem đại quân
trở lại vây bọc Thanh Lãng. Quân Trịnh trở lên nguy khốn, phải thả ngay
hai em của Danh Phương mới được giải vây.
Tháng
2 năm 1751, sau khi đánh bắt nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu, Trịnh Doanh đã
tập trung binh lực và đích thân đem đại binh với các viên tướng dày dạn
trận mạc như Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Nghiễm, Đoàn Chú tấn công vào căn cứ
của nghĩa quân. Đại quân của Trịnh Doanh vòng lên đường Thái Nguyên,
đang đêm tập kích vào các đồn luỹ Úc Kì, Hương Canh rồi tập trung binh
lực vào hạ căn cứ trung tâm Ngọc Bội. Dẫu làm chủ trên điểm
cao, nhưng trước áp lực tấn công của tổng binh lực quân Trịnh, đại đồn
Ngọc Bội của lực lượng nghĩa quân không trụ được, Nguyễn Danh Phương
phải chạy về cố thủ ở núi Độc Tôn rồi về Tính Luyện (Lập Thạch, Vĩnh
Phúc). Quân Trịnh tiếp tục bao vây truy kích bắt được Nguyễn Danh Phương
rồi giải về Thăng Long. Tháng 3 năm Tân Mùi - 1751, cùng với Nguyên Hữu
Cầu - Quận He, Nguyễn Danh Phương - Quận Hẻo, thủ lĩnh của nghĩa quân
vùng Sơn Tây, bị họ Trịnh đưa lên đoạn đầu đài ở kinh thành Thăng Long.