ĐỜI SỐNG CỦA CƯ DÂN TRONG THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC HÙNG VƯƠNG - AN DƯƠNG VƯƠNG
Vào
thời này, người Việt cổ đã chiếm cứ hầu khắp các vùng từ vùng núi,
trung du đến đồng bằng và ven biển, trong đó phát triển mạnh nhất là lưu
vực sông Hồng. Đất Vĩnh Phúc nằm trong khu vực này - cái nôi của nền
văn minh Việt cổ. Trình độ kỹ thuật và kinh tế giai đoạn này không những
kế thừa trực tiếp những thành tựu, kinh nghiệm sản xuất của các giai
đoạn văn hoá Tiền Đông Sơn, mà còn tạo ra bước nhảy vọt mới trong đời
sống kinh tế - xã hội. Nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, các
ngành thủ công nghiệp, đặc biệt là nghề luyện kim đồng phát triển và
ngày càng phổ biến, nghề luyện sắt ra đời, cùng sự giao lưu trao đổi
trong vùng với các nền văn hoá láng giềng đã làm cho bộ mặt kinh tế, văn
hóa thời Đông Sơn trở nên phong phú đa dạng hơn trước. Với sự ra đời và
phổ biến nhiều loại công cụ bằng đồng như rìu, cuốc, thuổng, xẻng và
đặc biệt là lưỡi cày đồng, không những đẩy mạnh việc khai phá mở rộng
diện tích trồng trọt, mà còn giúp con người có điều kiện thâm canh tăng
năng suất. Văn minh Đông Sơn, vì vậy, đã trở thành một nền văn minh nông
nghiệp lúa nước phát triển ở trình độ khá cao.
Thư tịch cổ Trung Quốc như Thuỷ Kinh chú, Giao Châu ngoại vực kí, Nam Việt chí, Cựu Đường thư, Thái Bình hoàn vũ kí, Phiên Ngung tạp kí đều
nói đến vùng lưu vực sông Hồng trước thời Bắc thuộc đất đai mầu mỡ,
nông nghiệp lúa nước phát triển. Cư dân Đông Sơn trên đất Vĩnh Phúc đã
sinh sống trên một vùng đất phì nhiêu sẵn nước, thừa ánh sáng mặt trời,
rất thuận lợi
cho sự sinh trưởng của cây lúa. Đồng thời lại được trang bị công cụ,
nông cụ bằng đồng và sau đó là bằng sắt đã thúc đẩy nền kinh tế nông
nghiệp phát triển nhanh. Chứng cứ cụ thể là nhiều loại hình rìu từ rìu
hình thang, rìu xoè cân, rìu xéo gót tròn, rìu xéo gót vuông hình hia,
hình bàn chân được tìm thấy ở các di tích Đồng Đậu, Nghĩa Lập, Gò chùa
Biện Sơn, Ngõ Bụt, Đồng Cốc, Đồng Ba Bậc, Đôn Mục, v.v…Đây là những công
cụ đa năng, dùng cho nhiều hoạt động sản xuất nông nghiệp. Cách Vĩnh
Phúc không xa, trong khu mộ Làng Cả, Gò De thuộc Phú Thọ đã tìm thấy
thuổng đồng hoặc xuôi về Hà Nội, trong các di tích Mã Tre, Xóm Nhồi,
Đình Tràng thuộc khu vực Cổ Loa đã phát hiện được các loại cuốc có vai,
lười cuốc hình chữ U, xẻng, và đặc biệt là trên một trăm lưỡi cày hình
quả tim trong lòng trống đồng. Nông cụ thu hoạch thường có liềm, dao
hái, nhíp. Liềm thì đã có từ giai đoạn trước ở Gò Mun, Chùa Thông, nhíp
đồng hình vỏ trai, hình bán nguyệt đã tìm thấy trên khu ác Cổ Loa.
Sự
xuất hiện của lưỡi cày đồng đánh dấu bước nhảy vọt quan trọng nhất
trong nền kinh tế nông nghiệp lúc bấy giờ. Trên lưu vực sông Hồng, suốt
từ Lào Cai, Yên Bái qua Phú Thọ về tới Hà Nội đều đã phát hiện được lưỡi
cày đồng hình quả tim hay hình gần tam giác, số lượng lên đến gần 200
chiếc. Vĩnh Phúc nằm trong không gian đó, lại ở ven sông Hồng không lí
do gì người nông dân ở đây lại không biết sử dụng lưỡi cày đồng - loại
nông cụ tiến bộ nhất lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, trong các di chỉ giai
đoạn Tiền Hùng Vương phát hiện được khá nhiều xương răng trâu bò, các
nhà nghiên cứu xác định phần lớn là trâu bò nhà. Song phần đông các nhà
nghiên cứu đều cho rằng trong giai đoạn này trâu bò được nuôi để lấy
thịt, chưa phải dùng làm sức kéo trong nông nghiệp. Dùng trâu bò
trong nông nghiệp, nếu có, thì chỉ là để dẫm làm nhuyễn đất các loại
ruộng sâu mà thôi. Đến giai đoạn văn hoá Đông Sơn, với việc ra đời của
lưỡi cày đồng, có thể người Đông Sơn đã dùng
trâu bò kéo cày, cả cày gỗ lẫn cày đồng. Ở Vạn Thắng ven bờ sông Hồng
thuộc Phú Thọ, lưỡi cày đồng phát hiện được cùng một chỗ với xương hàm
trâu bò. Theo thư tịch cổ Trung Quốc thì vài thế kỉ trước sau Công
nguyên người quận Cửu Chân đã biết cày bằng trâu bò. Giao Chỉ, trong đó
có Vĩnh Phúc luôn được xem là có nền kinh tế phát triển hơn Cửu Chân
chắc hẳn cũng đã biết dùng trâu bò kéo cày. Như vậy là cư dân văn hoá
Đông Sơn đã thực hiện bước nhảy vọt từ nền nông nghiệp dùng cuốc lên nền
nông nghiệp dùng cày trâu bò kéo.
Các
nhà nông học đã tiến hành đo đạc các hạt lúa gạo và vỏ trấu trong các
di tích văn hoá Tiền Đông Sơn và Đông Sơn và đi đến nhận định lúa ở lưu
vực sông Hồng lúc bấy giờ chủ yếu là dạng hạt tròn hay bầu, có thể thuộc
giống Japonica, còn ở sông Cả lại phổ biến giống lúa hạt thon. Vĩnh
Phúc nằm trong khu vực dạng lúa hạt tròn, là loại lúa gần với nếp và lúa nương..
Như
vậy, trên đất Vĩnh Phúc vào thời dựng nước, cư dân đã có một tập hợp
giống lúa khá đa dạng, có thể đã có cả lúa nếp, lúa tẻ, cày cấy cả vụ
mùa và vụ chiêm. Đáng chú ý là lúa nếp đóng vai trò quan trọng trong bữa
ăn hàng ngày của cư dân nơi đây. Với vùng đất nửa trung du nửa đồng
bằng, nền nông nghiệp Vĩnh Phúc thời này cũng rất đa dạng. Ngoài trồng
lúa, người dân ở đây còn phát triển nghề làm vườn trồng rau củ, cây ăn
quả và cây công nghiệp. Phổ biến hơn cả là rau muống, cà, hành, rau cải,
gừng, riềng.
Sách
cổ Trung Quốc cũng nói đến việc trồng cây công nghiệp trên đất Giao
Chỉ, Cửu Chân như mía, đay, gai bông, dâu trong khoảng vài ba thế kỉ
trước sau Công nguyên. Rất có thể lúc bấy giờ trên đất Vĩnh Phúc những
loại cây ưa khô, chịu hạn như bông, mía đã được trồng trên vùng đồi gò,
còn loại chuối, đay, dâu được trồng trên vùng châu thổ gần sông. Tóm
lại vào thời dựng nước trên đất Vĩnh Phúc cũng như cả vùng lưu vực sông
Hồng đã có một nền nông nghiệp đa dạng lấy nông nghiệp trồng lúa nước
làm cơ bản và đã đạt đến trình độ cao - nông nghiệp dùng sức kéo của
trâu bò.
Cùng
với trồng trọt, chăn nuôi gia súc trong giai đoạn này cũng có bước phát
triển mới. Bên cạnh những gia súc đã có từ trước như trâu, bò, lợn,
chó, gà vẫn ngày càng phổ biến thì một số thú lớn như voi đã được thuần
dưỡng. Không
kể xương răng các loại gia súc này đã được phát hiện trong các di tích
khảo cổ, một số hình ảnh gia súc như bò, gà, chó cũng đã được khắc trên
trống đồng, rìu đồng. Tượng voi có bành chở trống đồng cũng đã được thể
hiện trên cán dao găm hay tượng voi gắn trên cán muôi cho thấy việc
thuần dưỡng voi làm phương tiện chuyên chở là việc không xa lạ với người
Đông Sơn. Thư tịch cổ Trung Quốc cho biết voi và trâu bò cũng là những
cống phẩm của nước ta cho nhà Hán. Nhưng so với trồng trọt, chăn nuôi
chỉ đóng vai trò phụ trợ. Chăn nuôi gia súc vẫn là việc làm của từng gia
đình. Môi trường cảnh quan ở Vĩnh Phúc cũng như cả vùng trung du đồng
bằng miền Bắc nước ta không thuận lợi cho chăn nuôi lớn, đặc biệt là
chăn nuôi đại gia súc.
Với
sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, diện tích rừng cây ngày càng thu
hẹp, hoạt động săn bắn hái lượm ngày càng giảm. Song với một hệ thống
sông suối đầm hồ dày đặc, công việc đánh bắt cá vẫn ngày một phát triển
và có nhiều cải tiến. Trong nhiều di tích đã phát hiện được chì lưới
bằng đất nung, cho thấy nghề chài lưới khá phát triển.
Nông nghiệp phát triển thúc đẩy các nghề thủ công nghiệp phát triển. Sự
mở rộng tăng trưởng của các nghề thủ công mà trước hết là nghề luyện
kim lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Và cả nông nghiệp, thủ công
nghiệp phát triển đã thúc đẩy xã hội tiến lên. Đương nhiên thủ công
nghiệp phát triển không chỉ nhờ và chỉ
để phục vụ nông nghiệp. Nó còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố xã hội
khác. Thời văn hoá Đông Sơn là thời kì có các cuộc chiến tranh giữa các
bộ lạc, liên minh bộ lạc trong quá trình hình thành nhà nước, và cũng
là thời kì chuẩn bị đối phó với sự xâm lược của phong kiến phương Bắc
nên việc sản xuất các loại vũ khí bằng đồng và bằng sắt là vô cùng bức
thiết. Chính sự phát triển của nghề luyện đúc đồng và sự ra đời của nghề
luyện rèn sắt đã đáp ứng được nhu cầu bức thiết đó của xã hội.
Nghề
luyện đúc đồng ở Vĩnh Phúc được phát triển dựa trên cơ sở truyền thống
của hai trung tâm luyện đồng lớn nhất lưu vực sông Hồng thời Tiền Đông
Sơn là Đồng Đậu và Thành Dền. Nghề luyện đúc đồng thời này đã có bước
tiến mới. So với giai đoạn trước, đồ đồng lúc này không những nhiều hơn
hẳn về số lượng mà còn phong phú đa dạng về loại hình, trong đó có những
đồ đồng to lớn, hoa văn trang trí đẹp mắt như trống, thạp, thố, v.v.
Nhưng
trước hết, sự tiến bộ được thể hiện trên thành phần hợp kim đồng. Đến
giai đoạn này đồ đồng là hợp kim 3 thành phần, trong đó phần lớn là đồng
thiếc chì và đồng chì thiếc. Việc thêm thành phần chì vào hợp kim đồng
thau là một sáng tạo của cư dân Đông Sơn. Loại hợp kim này có nhiều ưu
điểm rất phù hợp để đúc các vật phẩm giai đoạn trước chưa có như trống,
thạp, thố, bình âu, chuông, tượng động vật, tượng người, v.v. Hầu hết
các trống đồng Đông Sơn đều được đúc từ hợp kim 3 thành phần: đồng,
thiếc, chì. Đối với các loại vũ khí như giáo, lao, nông cụ cần độ cứng
và sắc thì vẫn dùng hợp kim hai thành phần là đồng và thiếc, trong đó
đồng chiếm khoảng trên dưới 4/5.
Sự
tiến bộ của luyện kim đồng còn được thể hiện qua kỹ thuật đúc. Thời này
đã có thể đúc được những vật lớn, phức tạp về đường nét, tinh tế và
phong phú về hoa văn trang trí như trống đồng, thạp đồng bằng việc sử
dụng khuôn phá, đúc một lần. Đỉnh cao của luyện đúc đồng thời này được
thể hiện trên trống đồng về kĩ thuật cũng như nghệ thuật. Để đúc được
một chiếc trống đồng to hoa văn trang trí đẹp cần phải có những người
thợ giỏi về kĩ thuật luyện kim, tay nghề vững chắc, điêu luyện, đồng
thời phải am hiểu nghệ thuật sâu sắc. Đồng thời, còn phải có đầu óc tổ
chức khoa học nhịp nhàng trong việc nấu đồng đổ khuôn.
Một
thành tựu nổi bật của người Đông Sơn là sự ra đời của kĩ thuật luyện
sắt. Vĩnh Phúc là một tỉnh có nhiều quặng sắt và đã phát hiện được hai
trung tâm luyện sắt lớn là Thanh Vân - Đạo Tú và Hương Ngọc. Ở đây đã
phát hiện được quặng sắt với khối lượng lớn hàng chục tấn, nhiều xỉ sắt,
bầu lò, ống bễ cho thấy quặng sắt nơi đây đã được khai thác từ rất sớm,
có thể là ngay từ buổi đầu dòng nước.
Trên
lưu vực sông Hồng, ở những vùng xung quanh Vĩnh Phúc đã phát hiện được
khá nhiều đồ sắt từ thời dựng nước như những mẫu sắt phát hiện ở Gò
Chiền (Phú Thọ), Tiên Hội (Hà Nội), và đặc biệt ở Chiền Vậy (Hà Tây) đã
phát hiện được 1 lưỡi cuốc sắt hình chữ U, mà lớp đất phủ trên đó
có niên đại khoảng 2400 - 2200 năm cách ngày nay. Trong khoảng một,
hoặc hai thế kỉ trước sau Công nguyên, công cụ, vũ khí và vòng trang sức
bằng sắt được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ, và mộ táng trên lưu
vực sông Hồng quanh Vĩnh Phúc. Điều này cho thấy cư dân Vĩnh Phúc thời
dựng nước đã nắm vững kỹ thuật luyện kim sắt để sản xuất ra công cụ và
vũ khí bằng sắt.
Đồ
gốm gắn bó khăng khít lâu dài với con người, nhất là cư dân nông
nghiệp. Trên cơ sở của nghề gốm thời Tiền Hùng Vương, đến giai đoạn này
đồ gốm của cư dân Vĩnh Phúc tiếp tục phát triển và có những đặc trưng
riêng. Sự tiến bộ của nghề gốm lúc này thể hiện ở bước pha chế nguyên
liệu và kĩ thuật nung. Gốm ở đây thuộc loại hình gốm Đường Cổ. Xương gốm
tương đối mịn, đất sét được lựa chọn, sàng lọc cẩn thận. Gốm có màu
trắng đục ngả vàng, hồng nhạt hay xám móc. Độ nung gốm tương đối cao.
Những đồ gốm phát hiện được trong thời kì này có kích thước tương đối
lớn, có những chiếc nồi, vò rộng tới 0,50m, cao tới 0,60m. Kiểu dáng gốm
cũng phức tạp hơn trước, song hoa văn trang trí trái lại vô cùng đơn
giản, chủ yếu là văn thừng thô và khắc vạch đơn giản.
Những
hoạt động kinh tế gần cư dân thời Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc là
tương đối đồng bộ nhịp nhàng, trên cơ sở của nền nông nghiệp lúa nước
khá phát triển và ngành luyện kim đồng - sắt ngày một phổ biến, nhiều
ngành nghề phụ thủ công như nghề làm đồ gỗ, nghề dệt, nghề đan lát có
mặt khắp các thôn làng, không khác mấy cuộc sống nông thôn Việt Nam thời
phong kiến.
Sự
phát triển mạnh mẽ của các ngành nghề thủ công, nhất là nghề luyện kim,
nghề làm gốm, những nghề đòi hỏi phải có trình độ kĩ thuật cao, tay
nghề thành thạo, điêu luyện, đã làm nảy sinh một tầng lớp tách rời khỏi
nông nghiệp, quanh năm tập trung vào nghề thủ công. Với quy mô sản xuất
của các lò gốm, lò luyện kim loại, rõ ràng một gia đình không thể thực
hiện được, mà phải có một tổ chức bao gồm các thợ chuyên môn, có phân
công, cắt đặt công việc chu đáo hàng ngày. Có người đã nghĩ đến những
"quan xưởng" ra đời trong thời này. Sản phẩm làm ra đã được giao lưu trao đổi trong cả khu vực rộng lớn dọc theo các dòng sông.
Còn
các ngành nghề phụ như đan lát, làm đồ gỗ, dệt sợi vẫn chưa tách khỏi
nông nghiệp, sản phẩm của họ làm ra chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu trong
gia đình hoặc thôn xã.
Trên
cơ sở một nền kinh tế phát triển khá cao, cư dân Đông Sơn Vĩnh Phúc đã
có một cuộc sống tinh thần phong phú, lành mạnh. Những vòng trang sức,
những hoa tai, khuyên tai, bao chân, bao tay, nhẫn bằng đồng và bằng đá. Những
hình tượng người và động vật trên vũ khí, đồ dùng, và đặc biệt là những
đồ án hoa văn trang trí trên các trống đồng, thạp đồng, không những thể hiển trình độ kĩ thuật cao mà còn chứng tỏ tư duy thẩm mĩ của cư dân Vĩnh Phúc đã phát triển khá sâu sắc.
Nhưng
người Việt lúc này lại sắp phải đối mặt với một nguy cơ xâm lược từ
phương Bắc. Năm 221 TCN, nhà Tần thống nhất Trung Quốc và ngay lập tức
lao vào các cuộc viễn chinh bành trướng lãnh thổ. Người Việt phương Nam
- trong đó có nước Văn Lang của các vua Hùng - trở thành một trong
những đối tượng của công cuộc bành trướng này. Theo các nguồn sử liệu,
cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tần vào đất nước ta diễn ra trong
khoảng thời gian từ 214 TCN đến năm 208 TCN. Các vua Hùng và nhân dân
Văn Lang - người Lạc Việt - với địa bàn cư trú chủ yếu là vùng đồng bằng
và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã đoàn kết chặt chẽ với người âu
Việt mà thủ lĩnh là Thục Phán - với địa bàn cư trú chủ yếu là vùng núi phía Bắc cùng chống kẻ thù chung. Đây được coi là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đã kết thức với thắng lợi thuộc về người Việt phương Nam.
Sau khi giành được thắng lợi, theo truyền thuyết, Hùng Vương quyết định
nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán lên làm vua - tức An Dương Vương -
hợp nhất lãnh thổ của người Lạc Việt (nước Văn Lang) và Âu Việt, lập ra
nước Âu Lạc. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của người
Việt trong quá trình hình thành và phát triển quốc gia.
Sau
khi lên ngôi, An Dương Vương đã quyết định chuyển kinh đô về trung tâm
châu thổ sông Hồng, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội). Quyết định này hoàn toàn không tùy tiện. Cổ Loa
hay rộng ra toàn vùng Đông Anh - Hà Nội và Vĩnh Phúc nói chung, từ rất
sớm và ngày càng thể hiện rõ nét, tính chất của một trung tâm - nơi hội
tụ của văn minh Đông Sơn - văn minh sông Hồng. Chỉ tồn tại trong một
thời gian ngăn ngủi trên dưới ba mươi năm (208 TCN - 179 TCN), nhưng An
Dương Vương và nhân dân Âu Lạc, trong đó có đóng góp to lớn của nhân dân
Vĩnh Phúc với tư cách là một vùng kề sát có tiềm lực mạnh mẽ về kinh tế
và cư dân, xây dựng được công trình kiến trúc thành Cổ Loa đồ sộ mà dấu
vết vẫn còn rất rõ đến ngày nay (tất nhiên có sự bồi trúc thêm trong
các thời kì sau này). Thành Cổ Loa là biểu hiện tập trung nhất của trình
độ kỹ thuật và tiềm lực kinh tế của cư dân Âu Lạc thời An Dương Vương,
trong đó trước hết và chủ yếu được huy động từ các vùng xung quanh. Với
thành Cổ Loa kiên cố - có thành cao hào sâu, có thuỷ bộ liên hoàn - An
Dương Vương và nhân dân Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của Triệu Đà. Song năm 179 TCN An Dương Vương thất bại, từ đây
bắt đầu một thời kì đen tối của lịch sử Việt Nam
- thời kì mất nước kéo dài hơn một nghìn năm. Nhân dân vùng Vĩnh Phúc
cùng cả nước bước vào một thử thách vô cùng khắc nghiệt một mất một còn
với kẻ thù phương Bắc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo
tồn các truyền thống văn hóa vốn được tạo dựng trong thời đại dựng nước
Hùng Vương - An Dương Vương.