DI CHỈ KHẢO CỔ HỌC
Chỉ
vào khoảng 4.000 năm trước, cùng với sự hình thành vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng và sự xuất hiện của kĩ thuật luyện đúc đồng, con người đã
từng bước tiến xuống chiếm cứ khai phá vùng đồng bằng châu thổ và các
thung lũng sông suối. Họ mới dần lấn xuống sinh sống ở Vĩnh Phúc, đoạn tuyệt với thời đại đá để bước vào thời kì đồng thau.
Tư
liệu khảo cổ phát hiện trong mấy chục năm gần đây trên lưu vực sông
Hồng đã phác họa được các bước phát triển của con người nơi đây trước
buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Đó là giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên
- lấy di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên ở huyện Lâm Thao, Phú Thọ làm tiêu
biểu, thuộc sơ kì thời đại đồng thau. Tiếp đến là giai đoạn văn hoá
Đồng Đậu - lấy tầng văn hoá giữa di chỉ Đồng Đậu ở huyện Yên Lạc, Vĩnh
Phúc làm tiêu biểu, thuộc giai đoạn phát triển của thời đại đồng thau.
Và giai đoạn văn hoá Gò Mun - lấy di chỉ Gò Mun ở huyện Lâm Thao, Phú
Thọ làm tiêu biểu, thuộc hậu kì thời đại đồng thau. Ba bước phát triển
kế tiếp nhau này là tiền đề để hình thành văn hoá Đông Sơn sau đó nên
thường được gọi là văn hoá Tiền Đông Sơn hay Tiền Hùng Vương.
Cũng
giống như các vùng khác trên đất trung du và đồng bằng Bắc bộ, vào
khoảng đầu thiên niên kỉ 2 trước Công nguyên, trên nhiều vùng của tỉnh
Vĩnh Phúc đã có con người thời đại đồng thau cư trú. Với 3 giai đoạn
phát triển văn hoá của quá trình chuẩn bị cho sự ra đời nhà nước đầu
tiên của dân tộc: nước Văn Lang của các Vua Hùng.
- Giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên
Giai
đoạn văn hoá Phùng Nguyên mở đầu vào khoảng 4.000 năm và kéo dài trong
khoảng 700 năm. Đây là giai đoạn văn hoá phát triển rực rỡ nhất trên đất
Vĩnh Phúc. Di chỉ phát hiện được không những nhiều mà hiện vật thu lượm
được cũng cực kì phong phú, đa dạng. Chúng ta hãy lần lượt điểm qua các
di chỉ đã được phát hiện.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có các di chỉ khảo cổ học thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên:
-
Di chỉ Gò Đặng và Gò Sỏi đều thuộc xã Đôn Nhân, huyện Lập Thạch và cách
nhau khoảng 200m, trước đây được gọi chung là di chỉ Đôn Nhân. Những di
chỉ này có diện tích không lớn, chỉ khoảng 2.000m2, đều nằm
trên sườn quả đồi thấp. Hai di chỉ này chưa được khai quật. Các cuộc
điều tra cho thấy tầng văn hoá ở đây tương đối mỏng, chỉ khoảng 0,20 -
0,50m là loại đất núi có nhiều rĩ sỏi màu nâu đỏ. Trong quá trình canh tác nhân dân thường thu nhặt được rìu bôn đá
mài nhẵn, mảnh vòng đá, bàn mài và làm xuất lộ nhiều mảnh gốm thô mỏng
màu hồng. Trong đợt điều tra năm 2000 ở Gò Sỏi thu được 1 lưỡi
rìu tứ giác mài nhẵn bằng đá bazan, 3 mảnh bàn mài rãnh và nhiều mảnh
gốm thô. Còn ở Gò Đặng thu được 3 lưỡi rìu tứ giác và nhiều mảnh gốm
thô.
-
Di chỉ Gò Hội thuộc thôn Đồng Xoi, xã Hải Lựu, huyện Sông Lô lại nằm
trên cánh đồng trồng màu tương đối cao, cách sông Lô khoảng 300m. Di chỉ
có diện tích hoảng 2ha được phát hiện năm 2000 và đã qua 2 lần khai quật vào năm 2002 và 2003 với diện tích 267m2.
Tầng văn hoá tương đối mỏng, chỉ khoảng 0.50m, là loại đất sét pha cát
vàng sẫm pha rĩ sỏi. Đáng chú ý là dưới tầng văn hoá có nhiều hố đất đen
ăn sâu xuống sinh thổ. Không kể thu lượm trong các lần điều tra thám
sát, hai cuộc khai quật đã thu được 413 hiện vật đá, trong đó có số
lượng nhiều nhất là rìu bon tứ giác và bàn mài, 87 đồ gốm nguyên hoặc có
thể phục nguyên được cùng gần 10 vạn mảnh gốm thô.
- Huyện Vĩnh Tường có các di chỉ Nghĩa Lập, Lũng Hoà, Đồng Hương.
Di chỉ Nghĩa Lập nằm trên cánh đồng thôn Nghĩa Lập, xã Nghĩa Hưng, có diện tích khoảng 26.000m2,
nằm trên dải đất cao có tên là Gò Chùa, cách sông Lô khoảng 4km. Di chỉ
đã qua nhiều lần thám sát và hai lần khai quật. Tầng văn hoá tương đối
dày, khoảng 1,50m nhưng phân bố không đều, là loại đất sét màu xám nâu
hoặc xám đen. Đáng chú ý là dưới tầng văn hoá có nhiều hố đất đen hình
vuông hoặc chữ nhật sâu khoảng 1m, trong chứa nhiều đồ đá, mảnh gốm và
than củi. Trên mặt sinh thổ có nhiều lỗ cả. Hiện vật thu được khá phong
phú, gồm đồ đá và mảnh gốm. Đáng chú ý đồ gốm ở đây có trên 11% trang
trí hoa văn khắc vạch chấm giải tạo thành các đồ án đối xứng rất đẹp.
Những đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải trên gốm Nghĩa Lập là những đồ án
đẹp nhất trên đồ gốm Phùng Nguyên trên đất Vĩnh Phúc. Trong các đợt
điều tra cũng như khai quật còn thu được một số đồ đồng văn hoá Đông Sơn
như rìu xéo gót vuông, giáo. Đây có thể là vật được chôn trong mộ hoặc
trong các hố đất đen thời văn hoá Đông Sơn.
Di chỉ Lũng Hoà nằm trên khu đất cao trồng màu thôn Hoà Loan, cách sông Hồng khoảng 2,5km, có diện tích khoảng trên 31.000 m2. Di
chỉ đã qua nhiều đợt điều tra và 3 mùa khai quật. Tầng văn hoá tương
đối mỏng, chỉ khoảng 0,30 - 0,40m, là loại đất sét pha cát màu xám đen,
chứa nhiều mảnh gốm thô và hiện vật đá mài nhẵn. Dưới đáy tầng văn hoá
có một số hố đất đen gần hình tròn sâu khoảng 1m, trong chứa nhiều mảnh
gốm tương đối lớn. Đáng chú ý là trong cuộc khai quật năm 1965 - 1966 đã
phát hiện được 3 ngôi mộ gạch thời Bắc thuộc, 2 ngôi mộ vò, 1 ngôi
mộ đất cận hiện đại và 12 ngôi mộ đất kích thước lớn được chôn theo
hướng tây bắc - đông nam, trong đó một số mộ chôn theo kiểu tầng đài,
một số mộ còn giữ được một phần xương cốt có thể nghiên cứu được. Hiện
vật chôn theo vô cùng phong phú, gồm có rìu, đục, vòng trang sức bằng
đá, nồi, bát, bình, chạc gốm. Một số mộ còn chôn theo hàm răng lợn. Đáng
chú ý là đồ đá cũng như đồ gốm trong tầng văn hoá, trong đất lấp mộ và
đồ tuỳ táng về cơ bản giống nhau như đồ đá thì có rìu tứ giác, đục, vòng
trang sức, khuyên tai, hoa tai, hai chuỗi, ống chuỗi, giáo, qua, bàn
mài; đồ gốm thì có nồi, vò, bát chân đế, bình chân đế, bát hình ống nhổ,
dọi xe sợi, chạc gốm, v.v... Điều đó cho thấy tuổi của tầng văn hoá và
mộ táng là cùng thời hoặc cách nhau không bao lâu.
Ngoài
ra, tại xã Lũng Hoà còn phát hiện di chỉ Gò Mát và Gò Đồng Củ ở gần
nhau thuộc thôn Lũng Ngoại và cách di chỉ Lũng Hoà khoảng 800m. Tầng văn
hoá rất mỏng, chỉ khoảng 0,20m ở di chỉ Gò Mát và không rõ ràng ở Gò
Đồng Củ. Tại đây đã phát hiện được gốm thô, gốm mịn trang trí văn khắc
vạch, trổ lỗ và rìu đá tứ giác mài nhẵn.
Di
chỉ khảo cổ học Lũng Hoà vừa là một di chỉ cư trú, vừa là một khu mộ
địa của cư dân văn hoá Phùng Nguyên quan trọng nhất lần đầu tiên được
phát hiện. Đây là lần đầu tiên khai quật được một khu mộ có cấu trúc độc
đáo, phát hiện được một bộ sưu tập đồ tùy táng có số lượng khác nhau
giữa các mộ, và cũng là lần đầu tiên có được một bộ sưu tập đồ gốm văn
hoá Phùng Nguyên nguyên vẹn, trong đó có một số loại hình độc đáo như
chiếc bình miệng vuông đáy trốn. Đây là một nguồn tư liệu quý hiếm hoàn
chỉnh nhất để tìm hiểu cuộc sống và sinh hoạt xã hội của cư dân văn hoá
Phùng Nguyên, cư dân thời Tiền Hùng Vương.
Xã
Thổ Tang có di tích Đồng Hương và di tích Ma Cả. Điều tra cho thấy tầng
văn hoá ở đây tương đối mỏng, chỉ khoảng 0,50m, riêng Ma Cả có dày hơn
chút ít, đều là loại đất sét pha cát màu xám. Ở Đồng Hương đã thu được
một số rìu đá tứ giác và mảnh gốm thô. Còn ở Ma Cả đã thu được 12 công
cụ đá bao gồm rìu bôn tứ giác, độc, bàn mài lõm lòng chảo, bàn mài rãnh.
Đồ gốm ở đây cực kì phong phú, có bi gốm, chạc gốm, mảnh gốm có chỗ
chất thành đống. Chủ yếu là gốm thô màu hồng nhạt, hoa văn ngoài văn
thừng, có văn khắc vạch chấm dải tạo thành các đồ án đối xứng đẹp mắt,
trong đó có một số mô típ hình chữ S chạy dài thành băng giống như gốm ở
Nghĩa Lập. Đáng chú ý là ở phía đông bắc di tích có một ngôi mộ bị đào
phá, song có thể nhận biết huyệt mộ hình chữ nhật, đáy mộ có 4 nồi gốm
xếp ngửa liền nhau cùng 3 dọi xe sợi và một lưỡi rìu đá tứ giác. Huyệt
mộ cũng như đồ đá, đồ gốm ở đây phảng phất khu mộ Lũng Hoà. Di tích Gò
Đuông thuộc xã Bồ Sao, cách di tích Lũng Hoà không đầy 1km. Tầng văn hoá
ở đây không rõ ràng, trên mặt gò xuất lộ một số mảnh gốm thô màu hồng
nhạt về chất liệu cũng như hoa văn có nhiều nét gần với mảnh gốm phát
hiện ở Gò Ma Cả.
Huyện
Yên Lạc có các di chỉ Đồng Đậu (lớp dưới), Gò Chùa Biện Sơn, thuộc thị
trấn Yên Lạc; Gò Quán Đôi, Gò Mã Hòn, xã Đồng Cương; Gò Gai thôn Cốc
Lâm, xã Bình Định và Đinh Xá, xã Nguyệt Đức.
-
Di chỉ Đồng Đậu thuộc thôn Trung, thị trấn Yên Lạc (trước kia thuộc xã
Minh Tân). Di tích nằm trên một gò đất cao hơn mặt ruộng xung quanh
khoảng 15m, có diện tích khoảng 85.000 m2.
Quan sát vết tích tầng văn hoá, có thể xác định khu di chỉ Đồng Đậu có diện tích khoảng 64.000m2.
Di chỉ được phát hiện khá sớm, từ năm 1962. Không kể nhiều đợt điều tra
thám sát, cho đến nay đã qua 6 lần khai quật với tổng diện tích là 752m2.
Đồng
Đậu không chỉ là một di chỉ có diện tích lớn mà còn là một di chỉ có
tầng văn hoá dày và hiện vật phong phú đa dạng vào loại bậc nhất ở nước
ta.
Tầng
văn hoá ở đây dày trên 3m, nếu tính cả độ sâu các hố đất đen thì có chỗ
sâu tới trên 5m, là loại đất sét pha cát có màu sắc khác nhau và chứa
các loại hiện vật bằng đá, đồng, xương và gốm có chất lượng và số lượng
khác nhau giữa các lớp. Các nhà khảo cổ tham gia khai quật đã phân chia
ra được 3 lớp văn hoá khác nhau phát triển liên tục từ lớp dưới lên lớp
trên ở di tích Đồng Đậu. Lớp văn hoá Phùng Nguyên ở dưới cùng dày khoảng
trên 1m, cùng các bếp và hố đất đen ăn sâu vào sinh thổ, lớp văn hoá
Đồng Đậu ở giữa dày khoảng 1m, và lớp trên cùng thuộc văn hoá Gò Mun. Đó
là chưa kể trong tầng văn hoá di tích Đồng Đậu còn phát hiện được một
vài ngôi mộ văn hoá Phùng Nguyên chôn theo vòng trang sức bằng đá, nồi
gốm, chạc gốm và mộ văn hoá Đông Sơn chôn theo rìu xéo và giáo đồng.
Tầng
văn hoá Phùng Nguyên là loại đất sét pha cát màu xám nâu phớt vàng
giống loại đất nhân dân thường gọi là đất lộn mề gà, có nhiều bếp than
tro lớn trong chứa nhiều nhiều hạt gạo cháy và xương răng động vật như
trâu, bò, lợn nhà, lợn rừng, hươu, nai, hoẵng, v.v…và đặc biệt có nhiều
hố đất đen góc vuông thành thẳng đứng có cùng phương hướng cắt xén lẫn
nhau. Trong tầng văn hoá Phùng Nguyên cũng như trong các hố đất đen có
nhiều đồ đá, đồ xương và đồ gốm, song hầu như không thấy đồ
đồng.v.v...Có thể nói Đồng Đậu là di chỉ phát hiện được nhiều đồ xương
đẹp nhất nước ta. Đồ gốm cực kì phong phú, chủ yếu là gốm thô mỏng có áo
gốm màu hồng nhạt, trang trí văn thừng mịn, văn chải và tiêu biểu hơn
cả là văn khắc vạch chấm dải tạo thành các đồ án đổi xứng, nhưng không
phong phú và đẹp bằng gốm ở di chỉ Nghĩa Lập. Về loại hình, nổi bật hơn
cả là loại nồi vò miệng gần đứng thành miệng dày bụng sâu đáy tròn, bát
chân đế cao miệng loe rộng, bình hình ống nhổ miệng loe và chắc gốm có
chân đế cao,v.v…
Với
3 lớp văn hoá kế tiếp nhau và các mộ táng Đông Sơn cùng có mặt trên di
chỉ Đồng Đậu, lần đầu tiên chúng ta xác lập được một phổ hệ văn hoá thời
dựng nước trên lưu vực sông Hồng. Qua đó, có thể thấy tầm quan trọng
của di chỉ Đồng Đậu không chỉ với Vĩnh Phúc mà còn vô cùng quan trọng
đối với việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt cũng như quá trình hình
thành nhà nước đầu tiên của dân tộc.
Cũng
thuộc thị trấn Yên Lạc, sát gần Đồng Đậu có di tích gò chùa Biện Sơn.
Đây cũng là một gò đất nổi lên giữa vùng đồng chiêm trũng, song nhỏ và
thấp hơn gò Đồng Đậu nhiều. Tầng văn hoá xuất lộ ở góc tây bắc gò, nằm
sâu dưới lớp mặt khoảng 1m, dày khoảng 0,85m phân làm 2 lớp. Lớp dưới
dày khoảng 0,60m màu xám đen chứa công cụ đá như rìu bôn tứ giác, mảnh
vòng trang sức, bàn dập hai mặt đối nhau có rãnh song song và mảnh gốm
kiểu văn hoá Phùng Nguyên. Lớp trên mỏng hơn chỉ dày khoảng 0,25m màu
nâu xám có nhiều mảnh gốm, một lưỡi rìu đồng cân xứng nhỏ nhắn được phát
hiện trong lớp này.
Tại xã Đồng Cương đã phát hiện được 2 di tích văn hoá Phùng Nguyên là Gò Mã Hòn và Gò Quán Đôi.
-
Gò Mã Hòn là một gò đất cao nằm giữa cánh đồng thôn Chi Chi. Tầng văn
hoá ở đây tương đối mỏng, chỉ khoảng 0,20 - 0,40m dưới lớp đất canh tác
dày khoảng 0,20m. Tại đây, qua điều tra đã thu được một số rìu đá tứ
giác kích thước nhỏ mài nhẵn cùng nhiều mảnh gốm thô trang trí văn thừng
mịn và văn khắc vạch chấm dải, trong đó có một số mô típ văn hình chữ S
giống đồ gốm phát hiện ở Gò Gai. Theo những người phát hiện thì di tích
Gò Mã Hàn thuộc giai đoạn phát triển của văn hoá Phùng Nguyên.
-
Gò Quán Đôi cách Gò Mã Hòn không xa, còn gọi là Gò Đồng Quan. Ngày nay
xung quanh gò là đồng chiêm trũng, phía tây nam gò là Đầm Vạc quanh năm
đầy nước. Tầng văn hoá ở đây có 2 lớp: Lớp trên chứa nhiều gốm vỡ thời
phong kiến, lớp dưới là loại đất sét pha cát màu xám chứa nhiều mảnh gốm
thô và rìu đá. Chỉ mới qua điều tra sơ bộ đã thu được 3 lưỡi rìu đá tứ
giác nhỏ nhắn mài nhẵn, nhiều mảnh bàn mài và mảnh gốm. Gò Quán Đôi có
trình độ tương đương Gò Gai thuộc giai đoạn phát triển của văn hoá Phùng
Nguyên.
Di tích Gò Gai ở thôn Cốc Lâm, xã Bình Định, cách thành phố Vĩnh Yên khoảng 3km, có diện tích khoảng 400m2. Di tích đã qua một lần khai quật với diện tích 138,75m2.
Tầng văn hoá phân bố không đều, dày từ 0.20 - 0.70m, là loại đất sét
pha cát, đá ong hoá mạnh, có màu xám đen. Cuộc khai quật đã thu được một
số đồ đá và mảnh gốm. Đáng chú ý là ở đây chỉ thu được một lưỡi rìu có
vai và có tới 4 bàn dập có rãnh song song ở hai mặt đối nhau. Đồ gốm,
ngoài dọi xe sợi, bi gốm, chạc gốm, đã thu được gần 15 ngàn mảnh gốm vỡ.
Ở đây số lượng gốm mịn nhiều hơn gốm thô, phần lớn có màu đỏ
xám, hơi mốc và xám đen. Hoa văn trang trí, ngoài văn thừng mịn, có
nhiều hoa văn khắc vạch chấm dải tạo thành những đồ án 2 móc hình tam
giác đối xứng tiêu biểu cho gốm văn hoá Phùng Nguyên. Những người khai
quật xếp Gò Gai vào giai đoạn điển hình của văn hoá Phùng Nguyên.
Di
tích Tháp Miếu thuộc xóm Gạo, thôn Tháp Miếu, thị xã Phúc Yên. Di tích
phân bố trên gò đồi thấp hiện chỉ cao hơn xung quanh khoảng 8m, có diện
tích khoảng 1.500 m2, nhưng do nhân dân làm nhà, đào hào rãnh
nên tầng văn hoá bị xáo trộn nghiêm trọng. Tầng văn hoá dày khoảng
0,40m, là loại đất sét pha cát màu xám đen, chứa nhiều mảnh gốm thô mỏng
trang trí văn khắc vạch. Trong quá trình làm nhà, nhân dân ở đây đã
nhặt được một số rìu đá kích thước nhỏ mài nhẵn. Những người phát hiện
cho rằng gốm ở đây gần với gốm Nghĩa Lập nên xếp vào văn hoá Phùng
Nguyên.
-
Ở thôn Nội Phật, xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên đã phát hiện được di tích
Gò Ngành, còn gọi là Gò Môi, Gò Miếu, Gò Dâu, bốn bề đều có đồng chiêm
trũng bao quanh. Di tích rộng khoảng 200m2, tầng văn hoá dày khoảng 0,35m, là loại đất sét có nhiều rĩ sỏi.
Qua điều tra đã thu được 9 lưỡi rìu, trong đó có 8 chiếc là rìu tứ
giác, 7 bàn mài, 4 mảnh vòng mặt cắt ngang hình chữ T và hình bán
nguyệt, cùng nhiều mảnh gốm thô bở, trang trí hoa văn thừng mịn và khắc vạch chấm giải kiểu gốm văn hoá Phùng Nguyên.
Trên
xã Đại Đình, huyện Tam Dương bước đầu đã phát hiện được di tích Suối
Trại. Di tích Suối Trại phân bố trên một gò đất thấp, tầng văn hoá không
thật rõ ràng. Qua điều tra đã thu được một số rìu đá tứ giác kích thước
nhỏ mài nhẵn và nhiều mảnh gốm thô. Những người phát hiện cho rằng, di
tích này có khả năng thuộc văn hóa Phùng Nguyên.
Cũng
cần nói thêm là nằm sát ngay địa giới Vĩnh Phúc và trước đây thuộc
huyện Kim Anh, nay thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội có di tích Núi
Xây là một di tích văn hoá Phùng Nguyên khá điển hình. Di tích nằm ở
sườn đông nam hai quả đồi đất cao khoảng 20m bên bờ sông Cà Lồ, chỉ cách
thị xã Phúc Yên khoảng 3km. Di tích rộng khoảng 4.000m2. Tại đây đã khai quật 100m2,
tầng văn hoá dày khoảng 1m là loại đất sỏi màu xám đen xốp có lẫn nhiều
than tro, chứa nhiều hiện vật bằng đá và mảnh gốm. Hiện vật thu được
khá phong phú về số lượng cũng như loại hình. Trong diện tích 100m2
đã thu được 351 hiện vật đá, bao gồm 107 lưỡi rìu bôn, 176 bàn mài, 11
đục và 38 mảnh vòng. Đáng chú ý là ở đây đã phát hiện được 5 phiến thạch
có rãnh đôi song song thường được gọi là “dấu Bắc Sơn” cho thấy nguồn
gốc xa xưa của văn hoá Phùng Nguyên có thể truy tìm từ văn hoá Hoà Bình -
Bắc Sơn. Rìu đá ở đây chủ yếu là rìu tứ giác, song cũng có 3 lưỡi rìu
có vai và 3 lưỡi rìu có nấc phản ảnh mối giao lưu văn hoá lúc bấy giờ
giữa vùng trung du đồng bằng này với vùng núi phía tây, tây bắc và vùng
ven biển Đông Bắc. Ở đây thu được trên một vạn mảnh gốm thô, trong đó có
tới 17% hoa văn khắc vạch chấm dải và miệng gốm thành dày rất đặc trưng
cho gốm văn hoá Phùng Nguyên.
Qua
đó có thể thấy đến giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, con người đã có mặt ở
hầu khắp các huyện thị trên đất Vĩnh Phúc, khai phá vùng đồi gò gần
sông suối lẫn vùng đồng bằng châu thổ phì nhiêu mầu mỡ.
- Giai đoạn văn hoá Đồng Đậu
Giai
đoạn văn hoá Đồng Đậu tiếp nối giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, có niên
đại vào khoảng 3.300 - 3.000 năm cách ngày nay. Chính cuộc khai quật di
tích Đồng Đậu đã cung cấp tư liệu cho các nhà khảo cổ xác lập sự tồn tại
của giai đoạn Đồng Đậu trong tiến trình lịch sử thời Tiền Hùng Vương
trên lưu vực sông Hồng.
Cũng
giống như các tỉnh khác trong vùng trung du đồng bằng Bắc bộ, trên đất
Vĩnh Phúc, các di tích giai đoạn văn hoá Đồng Đậu tìm thấy được không
nhiều. Tiêu biểu hơn cả là lớp giữa di tích Đồng Đậu, Đinh Xá và Thành
Dền.
-
Di tích Đồng Đậu (lớp giữa): Lớp văn hoá giữa di tích Đồng Đậu dày
khoảng 1m, phân bố đều khắp di tích ở phía bắc cũng như phía nam, là
loại đất sét pha cát màu xám nhạt hoặc xám xanh tơi xốp, trong có lẫn
nhiều than tro. Trong lớp văn hoá này, thỉnh thoảng bắt gặp một số nền
đất sét vàng mịn, rãi dài rộng khoảng 3 đến 5m, dày từ 10 đến 20cm, trên
đó có nhiều lỗ tròn ăn sâu xuống. Cũng trong lớp này phát hiện được
nhiều xương răng động vật, nhiều nhất là xương sừng hươu, nai, hoãng,
hàm răng lợn, trâu, bò và cả xương cá, mai rùa, càng cua.v.v…Trong cuộc
khai quật gần đây phát hiện được một đoạn xương voi rất lớn. Đây cũng là
lớp văn hoá phát hiện được nhiều hiện vật nhất ở di tích Đồng Đậu, gồm
đồ đá, đồ xương sừng, đồ gốm và đồ đồng. So với hiện vật ở lớp văn hoá
Phùng Nguyên phía dưới, hiện vật ở đây không những nhiều mà còn có phong
cách riêng.
Đồ đá vẫn còn phổ biến, hiện vật bằng xương như mũi tên, mũi lao,
mũi lao có ngạnh có số lượng lớn, tương đương hoặc nhiều hơn lớp văn
hoá Phùng Nguyên phía dưới. Bên cạnh các loại dụng cụ săn bắn đó đã xuất
hiện vòng trang sức bằng xương. Chất liệu, hoa văn và kiểu dáng của đồ
gốm cũng khác giai đoạn trước. Gốm thô giảm, gốm mịn tăng, độ nung cao
hơn, gốm chạc, thành dày, có nhiều đồ đựng kích thước lớn. Hoa văn khắc
vạch chấm dải tiêu biểu cho giai đoạn trước nay không còn mà phổ biến là
loại hoa văn khuông nhạc nhiều răng chải thành các đồ án làn sóng, hình
chữ S nối đuôi nhau, hình số 8, hình thừng bện, hình đan bu gà.v.v… Hoa
văn này không những trang trí trên thân mà còn được trang trí cả phía
trong thành miệng. Chạc gốm cũng có khác trước, chân đế thấp hơn, đế có
hình bán nguyệt trang trí hoa văn, bắt đầu xuất hiện chạc gốm chân đế
hình rùa đơn giản. Đáng chú ý là trong lớp này đã phát hiện được một số
tượng bò, tượng gà bằng đất nung, tạo hình đơn giản nhưng rất sinh động.
Lớp văn hoá này đánh dấu một bước nhảy vọt trong kỹ thuật luyện đúc
đồng. Nếu như ở giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, rất hiếm hoi mới gặp một
tí xỉ đồng, thì ở lớp này không những phát hiện được khá nhiều đồ đồng,
mà còn có cả khuôn đúc đồng, nồi nấu đồng và muôi múc đồng, rìu xoè cân
nhỏ, rìu hình chữ nhật, mũi tên cánh én, mũi lao, mũi nhọn, lưỡi câu.
Đặc biệt đã phát hiện được một số bàn chải đồng. Chính những đồ đá, đồ
xương, đồ gốm và đồ đồng ở lớp này đã tạo nên phong cách đặc trưng cho
giai đoạn văn hoá Đồng Đậu.
Huyện
Yên Lạc có di tích Đinh Xá. Di tích này thuộc xã Nguyệt Đức, cách di
tích Đồng Đậu khoảng 2km về phía đông, gần sông Cà Lồ. Tại đây qua điều
tra đã phát hiện được ở độ sâu 1,50m của một hố đào 4 lưỡi rìu bôn tứ
giác kích thước nhỏ mài nhẵn, 4 vòng đá lớn mặt cắt ngang hình chữ nhật,
1 vòng đá lớn mặt cắt ngang hình chữ D cùng nhiều mảnh gốm thô,
trong đó có một số mảnh trang trí hoa văn khuông nhạc chải thành các đồ
án khác nhau. Trước đây khi mới phát hiện, di tích Đinh Xá được xếp vào
văn hoá Phùng
Nguyên, nay có thêm tư liệu về vòng trang sức và gốm chải hoa văn
khuông nhạc, nhiều khả năng di tích Đinh Xá thuộc giai đoạn văn hoá Đồng
Đậu.
Đáng
lưu ý là trong tầng văn hoá có 2 ngôi mộ, tử thi được đặt nằm trên nền
đất sét vàng hình chữ nhật, một mộ đơn táng không có đồ tuỳ táng, một mộ
song táng, giữa 2 tử thi có 1 bôn đá và 1 chạc gốm. Những người khai quật cho 2 ngôi mộ này thuộc văn hoá Đồng Đậu.
Hiện vật thu được khá phong phú. Trong diện tích 143m2 của cả ba mùa khai quật đã thu được 305 hiện vật đá, 70 hiện vật đồng, 5 hiện vật xương, nhiều đồ gốm và trên 11 vạn
mảnh gốm các loại. Đồ đá tập trung nhiều ở các lớp sâu, càng lên trên
càng giảm. Nhiều hơn cả là rìu bôn hình tứ giác kích thước nhỏ, bàn mài,
rồi đến vòng trang sức, hoa tai, hạt chuổi. Ngoài ra còn thu được 50
mảnh khuôn đúc, trong đó có khuôn đúc lìu và lao có ngạnh. Đồ đồng lớp
dưới ít, càng lên trên càng nhiều. Ngoài rìu xoè cân, cán đồng, mũi
nhọn, mũi tên, lưỡi câu.v.v. . Ở đây còn thu được 866 cục xỉ đồng.
Đồ
gốm nguyên không nhiều. Có số lượng nhiều hơn cả là bi gốm: 150 viên,
rồi đến dọi xe sợi. Ngoài ra, còn phát hiện được 2 khuôn đúc bằng đất
nung và 32 mảnh nồi nấu đồng cùng một số tượng bò bằng đất nung. Mảnh
gốm Thành Dền tương đối mịn, độ nung cao, gốm cứng, màu xám, trang trí
văn khuông nhạc chải thành các đồ án hình chữ S, làn sóng, văn
thừng bện, v.v... Đáng chú ý là ở lớp dưới cùng có một số mảnh gốm trang
trí văn khắc vạch chấm giải kiểu văn hoá Phùng Nguyên và ở lớp trên
cũng có một số mảnh mang phong cách gốm văn hoá Gò Mun. Do vậy, những
người khai quật cho di tích Thành Dền thuộc văn hoá Đồng Đậu từ giai
đoạn sớm đến muộn.
Cho
đến nay, Thành Dền là di tích phát hiện được nhiều khuôn đúc đồng nhất
trong số các di tích thời đại kim khí miền Bắc nước ta. Với số lượng 52
khuôn đúc, nhiều mảnh nồi nấu đồng cùng hàng trăm cục xỉ đồng đã được
phát hiện, có thể khẳng định Thành Dền không chỉ là một di chỉ cư trú mà
còn là một trung tâm luyện đúc đồng quan trọng lúc bấy giờ.
Như
vậy là lớp giữa di tích Đồng Đậu cùng với Đinh Xá và Thành Dền đã tạo
nên bộ mặt văn hoá giai đoạn đồng thau phát triển không chỉ cho Vĩnh
Phúc, mà là cho cả lưu vực sông Hồng. Cho đến nay, trong giai đoạn Đồng
Đậu, trên lưu vực sông Hồng chưa có một di tích nào phong phú toàn diện
như di tích Đồng Đậu và Thành Dền.
- Giai đoạn văn hoá Gò Mun
Tiếp
theo giai đoạn Đồng Đậu là giai đoạn Gò Mun. Giai đoạn Gò Mun là đỉnh
cao của văn hoá Tiền Đông Sơn, có niên đại vào khoảng 3.000 - 2.700 năm
cách ngày nay. Tiêu biểu cho giai đoạn văn hoá Gò Mun trên đất Vĩnh Phúc
là lớp trên di chỉ Đồng Đậu, Núi Cả và Thành Vượn.
-Lớp
trên di chỉ Đồng Đậu thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun, có tầng văn hoá
dày mỏng không đều, ở khu vực trung tâm gò, tầng văn hoá Gò Mun tương
đối dày, khoảng 1m, mỏng dần ra xung quanh. Lớp văn hoá Đồng Đậu phân bố
đều khắp di chỉ, còn lớp văn hoá Gò Mun không thấy xuất hiện ở phía nam
gò.
Hiện
vật thu được trong lớp văn hoá Gò Mun khá phong phú. Hiện vật đá ít hơn
hai lớp dưới, chủ yếu vẫn là các loại rìu bon tứ giác, đục, bàn mài,
vòng trang sức,v.v... song số lượng vòng trang sức giảm hẳn. Hoa tai đá
lại có hiện tượng ngược lại. Hoa tai giai đoạn này là loại tròn mỏng
dẹt, có lỗ tròn và khe hở, mặt cắt ngang gần hình thang vuông. Cũng ở
lớp này xuất hiện loại ống chuổi hình gối quạ khá độc đáo.
Hiện
vật bằng xương tuy vẫn còn, nhưng số lượng rất ít. Đồ đồng trong lớp
này không thật phong phú, song về số lượng cũng như loại hình so với lớp
văn hoá Đồng Đậu có tăng thêm, gồm có các loại rìu xoè cân, đục, mũi
nhọn, lưỡi câu, mũi lao, mũi lao có ngạnh, mũi tên, bàn chải, v.v…Đồ
đồng giai đoạn này không những có tiến bộ trong kĩ thuật đúc mà cũng có
đặc trưng riêng về kiểu dáng.
Đồ
gốm trong lớp văn hoá này có độ nung cao, gốm dày, cứng, màu xám. Điển
hình hơn cả là loại miệng gốm bản rộng loe cong và miệng gốm bản rộng
gãy ngang, trên bản rộng trang trí văn khắc vạch hình kĩ và kết hợp chấm
dải, chấm tròn hình cuống rạ. Trong giai đoạn sớm bản miệng tương đối
hẹp, chỉ khoảng 2cm, đến giai đoạn muộn bản miệng tương đối rộng, có bản
rộng tới 5 - 6cm. Văn thừng thô cũng được dùng để trang trí nồi, vò.
Đến giai đoạn này, chân đế bình, bát tương đối thấp, chỉ khoảng 1 - 2cm
hình vành khăn đơn giản, không trang trí hoa văn. Chạc gốm có số lượng
lớn và phổ biến loại chân đế hình con rùa.
So
với di chỉ Gò Mun trên tỉnh Phú Thọ - di chỉ được chọn làm tiêu biểu
cho giai đoạn văn hoá này thì lớp văn hoá Gò Mun ở đây tương đương với
giai đoạn sớm ở đó hoặc sớm hơn chút ít, có nghĩa là thuộc giai đoạn sớm
của văn hoá Gò Mun.
-
Di tích Núi Cả thuộc thị xã Phúc Yên, huyện Mê Linh. Thời Pháp thuộc,
người Pháp xây toà sứ trên núi Cả nên di tích bị phá hoại nghiêm trọng.
Di tích được phát hiện khá sớm, từ năm 1967, lúc đó di tích cũng chỉ còn
một rẻo đất dài khoảng 20 - 25m, phần trên cũng đã bị đào xới làm ụ
súng phòng không.
Quan
sát vách hào thấy tầng văn hoá ở đây dày khoảng 0,30 – 0,40m dưới lớp
đất sỏi. Tầng văn hoá là loại đất sét pha cát xốp màu xám đen, chứa
nhiều mảnh gốm thô. Gốm ở đây thuộc loại gốm miệng loe ngang, phía trong
thành miệng hơi lõm lòng máng, không trang trí hoa văn và loại miệng
loe ngang, thành miệng trang trí văn khắc vạch hình kĩ hà và văn cuống
rạ. Với loại gốm này, những người phát hiện xếp Núi Cả vào giai đoạn văn
hoá Gò Mun.
Ngoài
những di tích vừa kể trên, ở nhiều nơi trên đất Vĩnh Phúc, trong quá
trình sản xuất, đào mương, đào đất nung gạch, đào công sự, nhân dân
thường phát hiện được công cụ bằng đá như rìu, bàn mài, chày, v.v. . . nhưng
cán bộ khảo cổ, bảo tàng chưa có điều kiện tiếp cận nghiên cứu. Rất có
thể đó là những tín hiệu ban đầu tốt đẹp dẫn đến những phát hiện khảo cổ
quan trọng.
- Xóm Đồng Chằm, xã Quang Yên, huyện Sông Lô phát hiện 1 lưỡi
cuốc đá mài nhẵn khá đẹp bằng đá bazan. Về kiểu dáng, nó giống lưỡi rìu
có vai song kích thước lớn hơn. Cuốc dài 11,50cm, lưỡi rộng 8cm, dày
l,50cm, chuôi tra cán dài 2,8cm, rộng 2,6cm.
- Xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường phát hiện được 2 lưỡi mai đá
rất đẹp. Mai có lưỡi dài, chuôi tra cán ngắn mà rộng. 2/5 phía trên
lưỡi dày, 3/5 phần lưỡi phía dưới mỏng dần đến rìa lưỡi. Mai được mài
nhẵn toàn thân. Loại mai này đã phát hiện được lẻ tẻ ở một vài nơi ở cả
miền Bắc lẫn miền Nam
nước ta. Những chiếc mai đá này không nằm trong hệ thống phát triển văn
hoá từ văn hoá Phùng Nguyên đến văn hoá Gò Mun trên lưu vực sông Hồng
và được phần lớn các nhà khảo cổ xếp vào thời đại kim khí.
Di tích thời Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc
TT |
Di tích |
Vị trí xã, huyện |
Giai đoạn văn hóa |
Đặc trưng di tích và di vật |
1 |
Gò Đặng |
Đôn Nhân, Sông Lô |
Văn hóa Phùng Nguyên (VHPN) |
Gò đồi có rìu đá, gốm thô |
2 |
Gò Soi |
Đôn Nhân, Sông Lô |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Gò đồi có rìu đá, bàn mài, gốm thô |
3 |
Gò Hội |
Hải Lựu, Sông Lô |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Rìu đá, chạc gốm, gốm thô |
4 |
Nghĩa Lập |
Nghĩa Hưng, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu bôn, đục, bàn mài, vòng, hoa tai, nhiều hố đất đen |
5 |
Lũng Hòa |
Lũng Hòa, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Di chỉ cư chú và mộ địa lớn, có rìu bôn, đục, hoa tai, qua đá, nhiều gốm nguyên |
6 |
Đồng Hương |
Thổ Tang, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu tứ giác, gốm thô |
7 |
Ma Cả |
Thổ Tang, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Di chỉ cư chú, có 1 mộ Phùng Nguyên, có rìu tứ giác, đục, bàn mài, gốm thô |
8 |
Gò Mát |
Lũng Hòa, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có gốm thô, chày đá |
9 |
Gò Đồng Củ |
Lũng Hòa, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có gốm, rìu tứ giác, tầng văn hóa không rõ |
10 |
Gò Đuông |
Bồ Sao, Vĩnh Tường |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có gốm, rìu tứ giác, tầng văn hóa không rõ |
11 |
Đồng Đậu |
Thị trấn Yên Lạc (trước kia là xã Minh Tân) |
3 giai đoạn văn hóa:
-Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun |
Di
chỉ cư trú, luyện đúc đồng, 1 mộ Gò Mun, 2 mộ Phùng Nguyên, có nhiều
khuân đúc đồng, đồ xương, đồ đồng có rìu xòe cân, mũi tên, lao, lưỡi
câu, bàn chải, có tượng bò, gà, đàu người bằng đất nung |
12 |
Gò Chùa Biện Sơn |
Thị trấn Yên Lạc |
Văn hóa Phùng Nguyên và sau Phùng Nguyên |
Có rìu đá tứ giác, gốm thô, lớp trên có rìu đồng xòe cân |
13 |
Gò Mã Hòn |
Đồng Cương, Yên Lạc |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu đá tứ giác, gốm thô |
14 |
Quán Đôi |
Đồng Cương, Yên Lạc |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu đá tứ giác, gốm thô |
15 |
Gò Gai |
Bình Định, Yên Lạc |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu tứ giác, rìu có vai, bàn dập có rãnh song song gốm mịn nhiều hơn gốm thô |
16 |
Tháp Miếu |
Thị Xã Phúc Yên, Mê Linh |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Gò đồi, có rìu đá tứ giác, mảnh vòng, gốm thô |
17 |
Gò Ngành |
Tam Hợp, Bình Xuyên |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu tứ giác, mảnh vòng, gốm thô |
18 |
Suối Trại |
Đại Đình, Tam Dương |
Văn hóa Phùng Nguyên |
Có rìu tứ giác, gốm thô |
19 |
Đình Xá |
Nguyệt Đức, Yên Lạc |
Văn Hóa Đồng Đậu |
Có rìu đá, vòng mặt cắt hình chữ nhật lớn, gốm thô |
20 |
Thành Dền |
Tự Lập, Mê Linh |
Văn Hóa Đồng Đậu |
Di
chỉ cư trú, luyện đúc đồng, có 2 mộ và 52 khuân đúc, rìu xòe cân, lưỡi
câu, mũi tên bằng đồng, có một số tượng bò, gà bằng đất nung |
21 |
Núi Cả |
Thị Xã Phúc Yên |
Văn hóa Gò Mun |
Gò đồi có gốm hoa, văn hóa kiểu Gò Mun |
22 |
Thành Vượn |
Tam Đồng, Mê Linh |
Văn hóa Gò Mun |
Gò đồi có gốm hoa, văn hóa kiểu Gò Mun |
23 |
Yên Lập |
Yên Lập, Vĩnh Tường |
Thời đại Kim khí |
Phát hiện 2 mai đá kích thước lớn |
24 |
Đồng Chằm |
Quang Yên, Sông Lô |
Thời đại Kim khí |
Phát hiện cuốc đá có vai |