ĐỜI SỐNG CƯ DÂN THỜI TIỀN HÙNG VƯƠNG
Với
trên hai chục di tích đã được phát hiện, thực tế chắc còn nhiều hơn
nhiều, cùng với hàng ngàn hàng vạn di vật thu lượm được đã giúp chúng ta
hình dung đời sống vật chất và tinh thần của cư dân thời Tiền Hùng
Vương trên đất Vĩnh Phúc.
Con
người lúc bấy giờ từng gia đình lớn nhiều đời phần lớn cư trú trên các
sườn đồi đất thấp vùng trung du như Gò Đặng, Gò Sỏi, Núi Cả, Tháp Miếu,
Núi Xây hoặc trên các gò, doi đất cao gần sông trên vùng đồng bằng châu
thổ như Nghĩa Lập, Lũng Hoà, Gò Gai, Đồng Đậu, Thành Dền, Thành
Vượn,v.v... Các gia đình lớn trong cùng huyết thống thường sống tập
trung thành từng cụm hình thành nên các công xã thị tộc. Chẳng hạn như
cụm Gò Đặng, Gò Sỏi, cụm Lũng Hoà, Gò Mát, Gò Đồng Củ, Gò Đuông, cụm
Đồng Hương, Ma Cả, cụm Đồng Đậu, Biện Sơn, cụm Mã Hòn, Quán Đôi, Gò Gai,
cụm Thành Dền, Thành Vượn.v.v.
Quanh
nơi cư trú của họ lúc bấy giờ là những đồng bằng châu thổ phì nhiêu,
những đồi cây, những thung lũng rậm rạp là nguồn cung cấp lương thực
thực phẩm cho cả cộng đồng. Phân tích xương răng động thực vật thu được
trong các di tích Đồng Đậu, Thành Dền, Lũng Hoà, là di cốt của những
động vật do con người săn bắn và thuần dưỡng làm thức ăn thì thấy trong
đó vừa có các thú dữ lớn, vừa có các loại thú bìa rừng, vừa có các loại
thú sống gần sông nước. Các nhà nghiên cứu môi trường nhận xét là con
người thời bấy giờ thường sống trên những khu đệm giữa rừng rậm và gò
đồi thung lũng ven sông. Những nơi thuận tiện cho cuộc sống, họ định cư
lâu dài liên tục hàng ngàn năm từ giai đoạn Phùng Nguyên cho đến giai
đoạn Gò Mun như Đồng Đậu, Thành Dền, có nơi do hoàn cảnh nào đó họ chỉ
sinh sống trong một thời gian rồi chuyển đi chỗ khác như Gò Gai, Gò
Đặng, Gò Hội.v.v. Càng xuống gần đồng bằng, đời sống có nhiều thuận lợi
họ định cư lâu dài hơn, tầng văn hoá hệ tạo nên ngày càng dày.
Sống
trên các gò đồi, thềm sông, họ dựng nhà bằng tre, nứa, gỗ. Trong tầng
văn hoá ở nhiều di chỉ như Đồng Đậu, Lũng Hoà, Nghĩa Lập, Thành Dền đã
phát hiện được trên một số nền đất sét vàng có nhiều lỗ cột. Đáng chú ý
là ở những di chỉ trên cũng đã phát hiện được nhiều hố hình tròn, vuông,
chữ nhật có phương hướng gần giống nhau cắt xén lẫn nhau, đào sâu cẩn
thận, thành thẳng đáy bằng trong có đất đen chứa nhiều công cụ đá và
mảnh gốm vỡ. Nhiều khả năng cư dân lúc bấy giờ đã đào những hố này để
cất dấu lương thực, đồ dùng hàng ngày, sau đó nó trở thành những hố đựng
phế thải.
Cuộc
sống của cư dân thời Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc lấy nông nghiệp làm
nguồn sống chính. Nhờ sự phát triển của kĩ thuật chế tác đá, rồi kĩ
thuật luyện đúc đồng ra đời đã giúp con người có cuộc sống ổn định lâu
dài để sản xuất nông nghiệp. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển
nông nghiệp. Có thể nói ngay từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, nông
nghiệp đã là ngành kinh tế chủ yếu của cư dân nơi đây, đến giai đoạn văn
hoá Đồng Đậu, Gò Mun, với sự có mặt của công cụ bằng đồng, nông nghiệp
còn phát triển cao hơn. Việc phát hiện được nhiều hạt gạo cháy, thóc
cháy trong nhiều hố đất đen và bếp than tro từ giai đoạn Phùng Nguyên,
hoặc trong khuôn đúc bằng đất nung ở Thành Dền còn sót lại vết tích vỏ
trấu cho thấy: cư dân thời Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc đã vượt
qua giai đoạn nông nghiệp làm vườn, trồng rau, cây hoa quả bước sang
giai đoạn nông nghiệp trồng lúa mà là nông nghiệp trồng lúa nước. Ngoài
việc trồng lúa, họ còn trồng cây hoa quả, củ. Trong các di tích Đồng
Đậu, Thành Dền đã phát hiện được hạt trám, mận, mơ và đỗ.
Phương pháp canh tác của họ là dùng cuốc, cả cuốc đá lẫn cuốc gỗ. Sống
trên vùng đồi có thể vẫn sử dụng phương pháp chọn lỗ. Còn ở vùng thấp,
rất có thể họ dùng trâu bò dẫm làm nhuyễn đất để trồng lúa, trong xương
răng thú được ở Đồng Đậu, Thành Dền có cả răng trâu bò nuôi.
Tuy
phương pháp canh tác còn thô sơ, nông cụ còn giản đơn, chủ yếu vẫn là
bằng đá, nông cụ bằng đồng chưa nhiều, song nhờ đất đồng bằng châu thổ
phì nhiêu, nhiều chất khoáng, chất vi lượng, lại sẵn nước tưới nên kinh
tế nông nghiệp đã trở thành ngành kinh tế chủ yếu của cư dân Vĩnh Phúc.
Cùng
với nông nghiệp, nghề chăn nuôi gia súc cũng đã ra đời và ngày một phát
triển. Trong tầng văn hoá cũng như trong các hố đất đen ở các di tích
Đồng Đậu, Thành Dền, Lũng Hoà, Nghĩa Lập đã thu thập được nhiều xương
răng thú, trong đó có một số là vật nuôi như: lợn, trâu, bò, gà, chó.
Đáng chú ý là trong lớp văn hoá Phùng Nguyên và Đồng Đậu ở di tích Đồng Đậu
và Thành Dền đã phát hiện được một số tượng trâu, bò, gà bằng đất nung.
Về lợn, đáng chú ý là trong số 12 ngôi mộ văn hoá Phùng Nguyên ở di
tích Lũng Hoà có tới 7 mộ có chôn theo hàm lợn làm đồ tuỳ táng, mộ ít có
1 hàm, có mộ lên tới 3 hàm. Sự có mặt phổ biến của hàm lợn trong
đồ tuỳ táng cho thấy sự gần gũi của lợn với con người cũng như vi trí
của lợn trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nơi đây lúc bấy
giờ.
Bên
cạnh lấy nông nghiệp và chăn nuôi làm nguồn sống chính, cư dân nơi đây
lúc bấy giờ vẫn tiếp tục tiến hành việc săn bắn và hái lượm. Quần động
thực vật phong phú trong vườn quốc gia Tam Đảo ngày nay cùng khối lượng
xương răng sừng da thú thu được trong các di tích Đồng Đậu, Thành Dền,
Nghĩa Lập, Lũng Hoà cho phép chúng ta hình dung được vị trí của kinh tế
săn bắn hái lượm lúc bấy giờ. Họ không những săn bắn được các loại thú
nhỏ như cầy, cáo, cheo cheo, khỉ, mà họ còn có thể săn bắn được các loài
thú chạy nhanh như hươu, nai, hoẵng, v.v... Trong số xương thú thu lượm
được thì
xương răng và sống của hươu nai chiếm số lượng nhiều nhất. Không chỉ
thế, họ còn săn bắn được các loài thú dữ to lớn như voi, hổ, gấu, lợn
rừng, v.v... chứng tỏ kỹ thuật săn bắn thời này đã tiến bộ hơn trước rất
nhiều.
Về
phương thức săn bắn, bên cạnh các phương pháp vây ráp tập thể dồn thú
vào chỗ hiểm bằng gậy gộc, âm thanh, đốt lửa hoặc đánh bẫy, đến lúc này
họ đã biết dùng cung nỏ và phóng lao. Trong hầu hết các di tích thời này
đều phát hiện được mũi nhọn, mũi tên và lao bằng đá, bằng xương và bằng
đồng với các kiểu dáng khác nhau. Rất có thể một số loại vũ khí này
được dùng trong các cuộc tranh chấp, chiến tranh giữa các bộ tộc, song
một số lớn có thể là dụng cụ săn bắn chim thú lúc bấy giờ.
Cư
dân lúc bấy giờ cũng thường xuyên tiến hành việc đánh bắt thuỷ sản làm
thức ăn. Trong tầng văn hoá và hố đất đen các di tích đã phát hiện khá
nhiều vỏ ốc, trùng trục, mai rùa, càng cua, xương cá cùng chì lưới bằng
đất nung, lưỡi câu bằng đồng cho thấy kĩ thuật đánh bắt cá đã khá tiến
bộ, có thể đánh bắt được cả các loại cá lớn. Ngoài các phương pháp thông
thường như mò cua bắt ốc, đắp bờ tát cạn nước bắt cá. v.v... họ đã biết
dùng lưới đánh cá và câu cá. Lưỡi câu đồng lúc bấy giờ cũng có ngạnh
không khác lưỡi câu thép ngày nay. Vĩnh Phúc là tỉnh có nhiều sông suối,
hồ đầm phong phú các loại hải sản nên việc đánh bắt hải sản cũng có một
vị trí nhất định lúc bấy giờ. Công việc đánh bắt cá là công việc chung
thường xuyên của cả cộng đồng, già trẻ trai gái đều có thể tham gia.
Rừng
cây bạt ngàn từ vùng trung du đến đồng bằng thung lũng trên đất Vĩnh
Phúc với nhiều loại cây rau, hoa quả, rễ củ là nguồn cung cấp thực phẩm
quan trọng vào thời kì đó.
Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, các ngành thủ công cũng
dần dần hình thành và phát triển mà chủ yếu là nghề làm đồ đá, làm gốm
và luyện đúc đồng.
Sớm
hơn cả là nghề làm đồ đá. Cư dân giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên đã đưa
kỹ thuật khai thác đá lên đỉnh cao mà các giai đoạn trước đó chưa đạt
tới. Sang giai đoạn văn hoá Đồng Đậu và Gò Mun, kĩ thuật chế tác đá vẫn
phát triển song nghề làm đồ đá ngày càng giảm dần vị trí. Đồ đá giai
đoạn văn hoá Phùng Nguyên không những nhiều về số lượng, mà còn phong
phú đa dạng về loại hình. Sang các giai đoạn sau, số lượng và loại hình
đồ đá giảm dần, đến giai đoạn văn hoá Gò Mun đồ đá còn rất ít, một số
công cụ và vũ khí đã được thay thế bằng đồ đồng. Cư dân thời Tiền Hùng
Vương trên đất Vĩnh Phúc, ngay từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên mở đầu
đã sử dụng thành thạo các kỹ thuật cưa, khoan, mài, tiện để làm ra các
sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao. Giai đoạn này cư dân đã dùng phương pháp
khoan tách lõi đây là phương pháp tiêu biểu cho trình độ cao của kĩ
thuật chế tác đá thời tiền sử.
Trong
các di tích giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên không những có nhiều kiểu
loại vòng đá có kích thước to nhỏ khác nhau, mà còn phát hiện được cả
lõi vòng còn nguyên vẹn. Người thợ đá lúc nảy đã sử dụng kĩ thuật tiện
để làm ra các loại vòng có mặt cắt hình chữ T và vòng có nhiều đường ren
khá phức tạp. Kĩ thuật cưa cũng được sử dùng để làm ra các loại rìu đục
vuông thành sắc cạnh, và có thể sản xuất hàng loạt, tiết kiệm nguyên
liệu. Có thể nói đến giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên việc sản xuất đồ đá
mới trở thành một nghề thủ công đúng với ý nghĩa của nó và chắc hẳn một
số khâu trong quá trình chế tác đá đòi hỏi phải có một số thợ chuyên
nghiệp.
Nghề
làm đồ gốm thời Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc, kể từ giai đoạn văn
hoá Phùng Nguyên mở đầu đã rất tiến bộ và ngày một phát triển. Họ
đã có những người thợ gốm tài năng, nắm được kỹ thuật chọn lựa, pha
trộn nguyên liệu, kỹ thuật tạo dáng, trang trí hoa văn, kỹ thuật nung để
làm ra được những đồ gốm ngày càng bền, đẹp. Ở giai đoạn văn hoá Phùng
Nguyên chủ yếu là gốm thô, gốm mịn rất ít, phần lớn màu hồng nhạt hoặc
đỏ, thành gốm
tương đối mỏng, độ nung tương đối thấp, dễ vỡ, sang giai đoạn văn hoá
Đồng Đậu và Gò Mun gốm mịn ngày một tăng, kích thước tương đối lớn,
thành gốm dày hơn, độ nung tương đối cao, gốm cứng, đa phần có màu xám. Sự tiến bộ của đồ gốm được thể hiện rõ trong khâu tạo dáng và trang trí hoa văn.
Kể
từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, việc tạo hình phần lớn được thực
hiện bằng phương pháp bàn xoay, nên đồ gốm tròn trặn và mỏng đều, chân
đế được làm riêng rồi gắn chắp vào sau. Bàn xoay cũng được sử đụng trong
việc trang trí hoa văn, tạo nên những đường chỉ chìm chạy quanh thân,
miệng hoặc chân đồ gốm. Bàn xoay đã làm thay đổi bản chất của nghề gốm
lúc bấy giờ. Có thể nói việc sử dụng bàn xoay trong nghề gốm là một
thành tựu nổi bật của cư dân thời Tiền Hùng Vương nơi đây.
Qua nghiên cứu các nhà khoa học cho rằng gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ 7000C, gốm giai đoạn Đồng Đậu nung ở nhiệt độ khoảng 8000c. Còn gốm Gò Mun nung ở nhiệt độ khoảng 800 - 9000C.
Cho đến nay chưa phát hiện được lò nung gốm giai đoạn Tiền Hùng Vương
trên đất Vĩnh Phúc, nhưng qua thực nghiệm và tài liệu dân tộc học, phần
lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng đồ gốm thời này có nhiều khả năng đã
được nung trong lò, có thể là lò nửa chìm nửa nổi. Tuy chưa phát hiện
được bàn xoay cũng như cấu trúc lò, nhưng qua kiểu dáng và hoa văn cùng
chất lượng đồ gốm, có thể nói gốm thời này đã rất tiến bộ. Trong một ý
nghĩa nào đó, đồ gốm không chỉ là vật dùng hàng ngày, mà còn có thể xem
là đồ mĩ nghệ lúc bấy giờ.
Nghề
luyện đúc đồng ra đời muộn hơn, song nó đánh dấu một bước tiến nhảy vọt
có ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân thời Tiền Hùng Vương nơi đây. Cho
đến lúc này có thể khẳng định thời Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc
có 2 trung tâm luyện đúc đồng. Đó là Đồng Đậu và Thành Dền. Ở những nơi này đã phát hiện được nhiều khuôn đúc đồng, mảnh nồi nâu đồng, xỉ đồng và nhiều vùng đất bị nung đỏ lớn.
Ở giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên họ chỉ mới làm quen
với kĩ thuật luyện đồng, sang giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, rồi giai đoạn
văn hoá Gò Mun, một số người thợ đây đã nắm được kỹ thuật luyện đức
đồng. Tất cả hiện vật phát hiện được ở đây đều là hợp kim đồng, không có
đồng đỏ. Phân tích thành phần hợp kim Đồng Đậu có thể khẳng định ngay
từ buổi ban đầu người thợ luyện kim Đồng Đậu đã có những hiểu biết về
đặc tính của các nguyên tố kim loại khác nhau để vận dụng vào trong kĩ
thuật luyện đúc đồng. Người thợ đây
đã sử dụng thành thạo khuôn đúc hai mang bằng đá và bằng đất nung. Các
khuôn đất nung ở Đồng Đậu cũng như Thành Dền đều có 2 lớp, lớp ngoài là
đất sét trộn lẫn trấu và rơm, lớp trong là đất sét pha cát khuôn đúc
thời này chủ yếu làm bằng đá, hình dáng khuôn cũng như hình vật đúc được
chế tạo khá tỉ mỉ. Trên các khuôn có đủ "đậu rót" và "đậu ngót". Có
loại khuôn đúc 1 vật, có loại khuôn đúc 2, 3 vật, mà thường là vật nhỏ
như mũi nhọn, mũi tên, đục. Ở Đồng Đậu phát hiện được mang khuôn đúc 2
mũi tên cánh én rất đẹp. Tuy chưa đúc được những đồ đồng lớn, hoa văn
phong phú, cầu kì, nhưng kĩ thuật đúc đã khá tinh vi, tạo nên được những
công cụ, vũ khí sắc nhọn.
Bên
cạnh những ngành nghề thủ công chính có ảnh hưởng đến đời sống kinh tế -
xã hội lúc bấy giờ còn có một số ngành nghề thủ công có tính chất nghề
phụ trong gia đình như nghề làm đồ xương, nghề dệt vải, nghề đan lát
nghề mộc,v.v. Ở Đồng Đậu cũng như Thành Dền đã phát hiện được một số đồ
xương mai nhẵn khá đẹp. Bên cạnh các loại mũi tên, mũi nhọn, mũi lao,
mũi lao có ngạnh còn có những hiện vật chế tạo công phu, kiểu dáng cầu
kì như vật khoét rỗng hình tù và, vật hình chân ngựa hoặc vòng trang
sức.v v. Đồ xương tuy đẹp, phong phú, nhưng dẫu sao nó vẫn không phải là một nghề
phổ biến lúc bấy giờ. Chưa phát hiện được dấu vải, song sự có mặt dọi
xe sợi khá phổ biến với số lượng khá lớn trong hầu khắp các di tích
chứng tỏ nghề dệt được phổ biến rộng rãi trong các gia đình. Nghề đan
lát còn để lại dấu vết trên nhiều mảnh đáy bình bát gốm ở hầu hết cáo di
tính từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên đến Đồng Đậu, Gò Mun. Đặc biệt,
trong cuộc khai quật lần thứ nhất, Thành Dền đã phát hiện một mảnh đan
lóng đôi bằng tre mỏng. Kỹ thuật đan khá điêu luyện, nan vót đều, đan
lóng mốt, lóng đôi ngay ngắn như những tấm đan hiện nay.
Tóm
lại, các hình thức sinh hoạt kinh tế của những lớp người trong thời
Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc là một quá trình từ thấp lên cao,
nhưng ngay từ những lớp người đầu tiên đã có được một nền kinh tế bao
gồm nhiều ngành nghề khác nhau dựa trên cơ sở nền nông nghiệp trồng lúa
nước và nghề luyện đúc đồng tiên tiến.
Mặc
dầu chưa có tư liệu trực tiếp, song chúng ta có thể nghĩ rằng lúc bấy
giờ tuy đã có những công xưởng làm đồ đá, những lò sản xuất gốm, những
trung tâm luyện đúc đồng, song những ngành nghề thủ công này vẫn chưa
tách rời khỏi nông nghiệp. Còn trong các công xưởng chế tác đá là chế
tạo gốm lò luyện đúc đồng đã có sự phân công lao động nhất định. Đối với
những khâu lao động giản đơn, ít đòi hỏi trình độ kĩ thuật là công việc
của đàn ông khoẻ mạnh, họ có thể được phân công luân lưu trong công xã.
Đối với các khâu đời hỏi kĩ thuật cao rõ ràng phải có những người
chuyên môn phụ trách. Những người thợ thủ công chuyên môn này chắc hẳn
được dành nhiều thời gian trong năm để hành nghề. Song rất có thể, trong
những lúc mùa màng bận rộn, họ lại trở về với công việc của nghề nông.
Sản
phẩm của họ làm ra chủ yếu là cung cấp cho các thành viên trong công
xã, song một phần cũng được dùng để trao đổi rộng ra trong hoặc ngoài bộ
lạc. Mối giao lưu trao đổi lúc bấy giờ được tiến hành dưới nhiều trình
độ khác
nhau, song về cơ bản vẫn là vật đổi vật. Lúc bấy giờ có thể đã có sư
trao đổi nguyên liệu. Việc giao lưu kĩ thuật có thể cũng đã diễn ra vào
thời kì này. Kĩ thuật khoan tách lõi, khoan tiện đá, bàn xoay gốm, luyện
đúc đồng v.v được sử dụng rộng rãi vượt ra ngoài vùng trung du đồng
bằng Bắc bộ. Nhưng phổ biến hơn cả là sự giao lưu sản phẩm. Cho
đến nay chưa phát hiện được một công xưởng chế tác đồ đá hoặc lò gốm
nào vào thời này trên đất Vĩnh Phúc, tuy lõi vòng đá có mặt ở nhiều nơi.
Vào
thời này trên đất Vĩnh Phúc có 2 trung tâm luyện đúc đồng là Đồng Đậu
và Thành Dền. Sản phẩm của 2 trung tâm này đã được trao đổi khắp các di
tích trong vùng có thể nhờ nền kinh tế đa dạng và phát triển qua mối
giao lưu trao đổi, cư dân thời Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc đã có
một đời sống vật chất tương đối đầy đủ, đời sống tinh thần ngày một đa
dạng. Họ không chỉ lo cái ăn, cái mặc, mà còn chú ý làm cho cuộc
sống thêm phong phú. Số lượng và kiểu dáng các loại đồ trang sức như
vòng tay, nhẫn, hoa tai, khuyên tai với đủ loại màu sắc phát hiện được
trong các di tích đủ nói lên mối quan tâm đến việc trang điểm của con
người lúc bấy giờ. Hầu như tất cả các di tích đã khai quật đều có đồ
trang sức bằng đá hoặc bằng xương, ít là vài chục, nhiều lên tới vài
trăm mảnh. Chẳng hạn ở Đồng Đậu thu được 422 mảnh vòng, 17 hạt ống
chuỗi, 49 hoa tai, khuyên tai; Lũng Hoà có 96 mảnh vòng, 19 hạt chuỗi,
Thành Dền thu được 78 mảnh vòng, 19 hạt chuỗi,v.v.
Khiếu
thẩm mĩ của cư dân thời này được thể hiện qua kiểu dáng, màu sắc, hoa
văn đồ đá, đồ gốm và đồ đồng. Trong một ý nghĩa nào đó, đồ đá cũng như
đồ gốm thời Tiền Hùng Vương ở đây đã là những đồ mĩ nghệ, những người
thợ đá, thợ gốm ở đây là những nghệ nhân. Họ đã kết hợp một cách tài tình giữa giá trị sử dụng và giá trị thẩm mĩ để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật gần gũi với đời sống.
Đỉnh
cao Giải trình độ thẩm mĩ ở đây được thể hiện trên một số tượng trâu
bò, tượng gà bằng đất nung đã được phát hiện ở Đồng Đậu và Thành Dền. Có
thể nói đây là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình ra đời vào loại sớm
nhất trên đất nước ta.
Trong
quá trình lao động sản xuất không những trình độ thẩm mĩ ngày một nâng
cao mà tư duy trừu tượng cũng không ngừng phát triển. Chẳng hạn như họ
đã trang trí hoa văn bằng các đồ án đối xứng, từ đối xứng gương, đối
xứng bức đến đối xứng tiên tiến. Những cách trang trí này phần nào phản
ánh quá trình quan sát tự nhiên của con người vào thời kì đó. Không
những thế, cư dân thời Tiền Hùng Vương trên đất Vĩnh Phúc đã biết dùng
bàn xoay chế tạo đồ gốm, dùng kiểu bàn xoay khoan tách lõi đồ đá và đỉnh
cao là nắm vững kĩ thuật luyện đúc đồng.
Trong
đời sống tín ngưỡng - tâm linh, người chết được chôn cất rất chu đáo và
mỗi giai đoạn lại có cách chôn cất riêng. Chẳng hạn ở giai đoạn Phùng
Nguyên, người chết được chôn thành một khu trong nơi cư trú để thuận
tiện trông nom và luôn cảm thấy gần gũi như lúc còn sống. Mộ thường chôn
trong huyệt đất hình chữ nhật. Riêng khu mộ Lũng Hoà thì người chết
được đào sâu chôn chặt một số mộ có tầng cấp. Riêng ngôi mộ to nhất có
tầng cấp, đáy huyệt lõm lòng máng. Đáng chú ý là thời này tử thi đều
được chôn nằm ngửa chân tay duỗi thẳng có phương hướng, tương đối giống
nhau và thường được chôn kèm theo công cụ và vật dùng hàng ngày như rìu,
đục, bàn mài, vòng trang sức bằng đá và nồi, vò, bình, bát, chắc gốm.
Với phương thức mai táng nảy, con người nơi đây không những coi trọng
cái chết mà họ còn có quan niệm về cuộc sống của con người ở thế giới
bên kia.
Đến
giai đoạn văn hoá Đồng Đậu và Gò Mun, những ngôi mộ ở di tích Thành Dền
lại có cách chôn khác. Có mộ chôn một người, có mộ chôn đôi. Tử thi
được đặt nằm trên một nền đất vàng hình chữ nhật và gối lên gối đất sét.
Những mộ này cũng được chôn ngay nơi cư trú và có mộ chôn theo đồ tuỳ
táng như rìu đá, chắc gốm.
Với
trình độ sản xuất lúa bấy giờ, người đàn ông bắt đầu chiếm vị trí quan
trọng trong sản xuất cũng như trong đời sống xã hội. Bức tượng đá đàn
ông phát hiện ở Văn Điển thuộc văn hoá Phùng Nguyên nói lên điều này.
Để
tìm hiểu vị trí của các thành viên trong xã hội, tư liệu 12 ngôi mộ ở
Lũng Hoà sẽ cho chúng ta những gợi ý quan trọng. Với cấu trúc và phương
hướng giống nhau. 12 ngôi mộ này là mộ của các thành viên trong một thị
tộc. Giữa các mộ có những khác biệt về kích thước, về độ nông sâu, về
các tầng cấp và đặc biệt là về chủng loại và số lượng đồ tuỳ táng. Trong
các mộ trên, mộ có kích thước lớn nhất, chôn sâu nhất, cũng là mộ có
nhiều đồ tuỳ táng nhất. Đó là mộ M7 có 20 hiện vật đá và gốm. Mộ M8 có
24 hiện vật đá và gốm. Ngôi mộ nhỏ nhất là M16, chỉ sâu khoảng im, dài
chỉ trên 2m, nhưng cũng chôn theo tới 6 hiện vật, cũng có hạt chuỗi, hoa
tai, đục và chắc gồm. Riêng ngôi mộ M9 trong 6 đồ tuỳ táng có 1 lưỡi
qua đá rất đẹp và 3 hạt chuỗi bằng đá. Tình hình trên đây phản ánh chủ
nhân các ngôi mộ này chưa có sự cách biệt về địa vị. Hiện vật chôn theo
có nhiều ít song không quá chênh lệch và đều là công cụ lao động và đồ
dùng hàng ngày. Có một vật có thể nói lên địa vị chủ nhân, đó là lưỡi
qua đá. Song ngôi mộ đó cũng chỉ có 6 hiện vật là hạt chuỗi và bát giống
như các mộ khác. Từ đó chúng tôi nghĩ rằng ở giai đoạn văn hoá Phùng
Nguyên cư dân nơi đây chưa có sự khác biệt lắm về địa vị và quyền lợi.
Mọi người trong công xã cùng lao động cùng hưởng thụ. Những người đứng
đầu công xã hay thị tộc, tuy có một vài quyền lợi nào đó về kinh tế và chính trị, nhưng chưa hình thành một giai tầng riêng tách khỏi cộng đồng.
Sang
giai đoạn văn hoá Đồng Đậu và Gò Mun tuy có một số công cụ bằng đồng
nhưng vẫn còn công cụ đá, chưa thay xuất hiện những công cụ bằng đồng có
năng suất cao như cuốc đồng, lười cày đồng. v.v. Vì vậy, có thể nghĩ
rằng đến giai đoạn văn hoá Đồng Đậu và đặc biệt là văn hoá Gò Mun, cư
dân nơi đây với sự phát triển của kinh tế, đẩy nhanh quá trình phân hoá
tài sản, dần dần hình thành các giai cấp xã hội, đưa tới sự tan rã của
chế độ công xã trong giai đoạn tiếp theo để hình thành nhà nước đầu tiên
của dân tộc.