TỔNG QUAN TỈNH VĨNH PHÚC
Tỉnh
Vĩnh Phúc có diện tích không lớn, song có địa hình đa dạng phong phú,
vừa có vùng đồng bằng phì nhiêu bao quanh các dòng sông Hồng, sông Lô,
sông Đáy, sông Phan, sông Cà Lồ kéo dài từ đỉnh tam giác sông Hồng xuống
gần thủ đô Hà Nội, vừa có vùng trung du đồi gò bát úp kéo dài từ Lập
Thạch qua Vĩnh Yên xuống tận Bình Xuyên, nam Phúc Yên và có cả dãy núi
Tam Đảo với ba ngọn Thạch Bàn, Thiên Thị và Phù Nghĩa.
Vĩnh
Phúc là phên dậu phía tây bắc thủ đô Hà Nội, có một hệ thống sông ngòi
đầm hồ chằng chịt quanh năm đầy nước, một hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt, gần đường hàng không nối liền với hai hải cảng lớn là Hải
Phòng, Quảng Ninh trong tam giác phát triển kinh tế Bắc bộ về phía đông
và thông với Vân Nam, Quý Châu Trung Quốc về phía tây.
Trong
lòng đất Vĩnh Phúc chứa nhiều tài nguyên phong phú như: than nâu, than
bùn, mỏ sắt, mỏ thiếc, đất sét, cao lanh, v.v. và trên rừng rậm Tam Đảo
có nhiều động thực vật quý hiếm, không phải nơi nào cũng có.
Với
những điều kiện tự nhiên đó, Vĩnh Phúc đã sớm thu hút được con người
đến khai phá, sinh cơ lập nghiệp và trong cuộc đấu tranh vật lộn với mọi
trở lực của thiên nhiên cũng như trong các cuộc chiến đấu chống bọn
ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, các thế hệ nhân dân Vĩnh Phúc
từ thế hệ này sang thế hệ khác đã phát huy truyền thống của cha ông, xây
dựng Vĩnh Phúc thành một tỉnh ngày một giàu đẹp văn minh.
Khoảng
trên dưới hai vạn năm trước những lớp người đầu tiên từ vùng núi cao
tây bắc - đông bắc xuống khai phá vùng đồi gò gần sông suối trên đất Lập
Thạch và vùng đồi gò ven dãy Tam Đảo, chạy dài xuống tận vùng Phúc Yên.
Họ
cùng với cư dân Phú Thọ khai phá vùng trung du gò đồi hai bên bờ sông
Lô, sông Hồng. Dấu tích cuộc sống của họ để lại là những công cụ cuội
ghè đẽo thô sơ hình múi bưởi hoặc hình 1/4 viên cuội mà các nhà khảo cổ
định danh là văn hoá Sơn Vi. Những công cụ này được dùng để chặt cây,
xới đất, đào củ và cũng có thể vót tre, nứa, nạo lông thú, cắt xẻ thịt
thú rừng, phục vụ cho việc chinh phục thiên nhiên.
Sau
lớp cư dân văn hoá Sơn Vi, do nhiều nguyên nhân, con người lùi vào sinh
sống trong các hang động trên vùng núi cao, nên trên đất Vĩnh Phúc chưa
phát hiện dấu tích cuộc sống của con người trong khoảng trên dưới một
vạn năm đến khoảng năm ngàn năm trước. Đó cũng là tình hình phổ biến
khắp vùng trung du đồng bằng miền Bắc nước ta.
Khoảng
4.000 năm trước, với sự xuất hiện của nghề luyện kim đồng và đặc biệt
là sự ra đời của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, cư dân lúc bấy
giờ đã tiến dần xuống khai phá vùng đồng bằng phù sa cổ ven các sông
suối, đầm hồ. Với
kỹ thuật mới, bên cạnh những công cụ và đồ trang sức bằng đá mài nhẵn
cực kỳ tinh xảo và sắc bén, họ đã có thêm những công cụ như rìu, đục và
vũ khí bằng đồng. Những công cụ này đã giúp con người có thể sống ổn
định lâu dài trên các gò đồi, doi đất cao ven sông hồ, hình thành nên
những xóm làng nông nghiệp trên đất Vĩnh Phúc.
Trên
cơ sở nền nông nghiệp trồng lúa nước khá phát triển, con người đã xây
dựng một nền thủ công nghiệp khá đa dạng, bao gồm nhiều ngành nghề như
các công xưởng chế tác đá, các lò nung gốm, đặc biệt là các lò luyện đúc
đồng. Những đồ gốm trong các di tích Lũng Hoà, Nghĩa Lập về kiểu dáng
cũng như hoa văn trang trí cho thấy bước tiến vượt bậc về kỹ thuật chế
tác. Còn
hai di tích Đồng Đậu và Thành Dền là hai trung tâm luyện đúc đồng thời
tiền sử có quy mô lớn nhất nước ta lúc bấy giờ. Nó ít nhiều khẳng định
tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp của bộ phận thủ công nghiệp trong
đời sống xã hội.
Chính
những thành tựu này đã chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của nhà nước đầu
tiên của người Việt cổ trên lưu vực sông Hồng. Quá trình này được các
nhà sử học gọi là thời Tiền Hùng Vương, bao gồm ba giai đoạn phát triển
nối tiếp nhau là Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun.
Khoảng
2.700 năm trước, sự phổ biến của nền nông nghiệp dùng lưỡi cày đồng
trâu bò kéo và sự ra đời của kỹ thuật luyện sắt đã hoàn toàn loại bỏ
công cụ đá ra khỏi đời sống, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc,
làm thay đổi bộ mặt xã hội lúc bấy giờ. Đây là thời kì nền văn hoá Đông
Sơn được hình thành trên toàn bộ khu vực cư trú của người Việt cổ trên
lưu vực các sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Kinh tế phát triển, sản xuất
được đẩy mạnh dẫn đến sự phân hoá tài sản và phân hoá xã hội. Trong
xã hội đã phân biệt kẻ giàu, người nghèo, một nhà nước sơ khai được
hình thành nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nhà nước Âu Lạc của An
Dương Vương. Ngoài ra, dấu tích của trống đồng Minh Quang, trống đồng
Đạo Trù và những bộ sưu tập rìu, giáo đồng ở Đồng Đậu, Nghĩa Lập cùng huyền thoại về bà Lăng Thị Tiêu quê Đại Đình giúp Hùng Duệ Vương đánh giặc giữ nước, được sắc phong là “Tam Đảo trụ quốc tối linh đại vương", nhân dân tôn kính lập nhiều
đền miếu thờ phụng, mà tiêu biểu hơn cả là đền Tây Thiên trên núi Tam
Đảo đã khẳng định những đóng góp của nhân dân Vĩnh Phúc vào sự phát
triển của dân tộc.
Suốt
một ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, nhân dân Vĩnh Phúc không
lúc nào ngừng nổi lên đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước. Tiêu
biểu hơn cả là vào khoảng đầu công nguyên, ở huyện
Mê Linh, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị vì nợ nước thù nhà đã xây
thành đắp luỹ, phất cờ khởi nghĩa đánh quân Đông Hán, được nhân dân khắp
mọi miền hưởng ứng. Hai bà đã thu phục được 65 thành, tự xưng là Trưng
Vương, đóng đô ở
Mê Linh. Lần đầu tiên Mê Linh trên đất Vĩnh Phúc trở thành kinh đô của
đất nước. Không những thế, nhiều hào kiệt cùng quê hương Vĩnh Phúc đã mộ
dân đi theo Hai Bà, cầm quân đánh giặc. Truyền thuyết, thần tích ở đây còn lưu lại nhiều tấm gương hi sinh oanh liệt như bà Lê Thị Ngọc Chinh ở Vĩnh Tường, 5 anh em con bà Triệu Thị Khoan Hoà, hoặc cô cháu bà Do La thần nữ và 4 chị em ông An Bình Lí ở Bình Xuyên.
Tiếp
nối truyền thống chống xâm lược của Hai Bà, nhiều người con Vĩnh Phúc
như Lí Bí rồi Lí Phật Tử sau đó đã nổi lên chống sự thống trị của nhà
Tuỳ, lập nên nước Vạn Xuân. Tuy tồn tại không được bao lâu, song hình
ảnh một nước Vạn Xuân độc lập là tấm gương, ước muốn của nhân dân ta,
được nhân dân tôn kính, lập đền thờ.
Sang
thế kỷ thứ X, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, mở đầu kỉ nguyên độc
lập của dân tộc. Song vì tính chất phân tán cát cứ còn mạnh, chính quyền
trung ương còn yếu, nên sau đó không bao lâu, cục diện 12 sứ quân đã
hình thành trên vùng trung du đồng bằng Bắc bộ. Ở
Vĩnh Phúc có sứ quân của Nguyễn Khắc Khoan, ông người Yên Lạc là một
hào kiệt được phân phong vùng Tam Đái. Nguyễn Khắc Khoan tài trí, mưu
lược, lại có nhiều việc làm được lòng dân, nên ông được dân suy tôn làm
minh chủ, đóng đại bản doanh ở núi
Biện Sơn. Nhưng sau nhiều lần giao tranh, cuối cùng ông bị quân của
Đinh Bộ Lĩnh thu phục; về sau, nhiều đền thờ ông đã được lập trên đất
quê nhà.
Sang thời Lí - Trần, với vị
trí kề cận kinh đô Thăng Long, đất đai màu mỡ, đường giao thông thuỷ,
bộ thuận lợi, nền kinh tế nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp Vĩnh Phúc
có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Trong đó, một số ngành nghề truyền
thống như nghề làm đồ gốm ở vùng
Kẻ Cánh (Hương Canh), không chỉ sản xuất đồ dùng phục vụ cuộc sống sinh
hoạt hàng ngày mà còn làm ra gạch ngói xây dựng nên những chùa tháp nổi
tiếng khắp vùng, như tháp Đạo Trù, tháp Kim Tôn, tháp Bình Sơn, Chùa
Cói, chùa Yên Nhiên, chùa Then, v.v. Nghề đục cối đá ở Hải Lựu, nghề luyện rèn sắt ở khu vực Thanh Vân - Đạo Tú, Thùng Mạch.
Đời
sống vật chất ngày một cải thiện, người dân Vĩnh Phúc bắt đầu chăm lo
đến sự học, tiến thân bằng con đường khoa bảng. Suốt thời trung đại,
Vĩnh Phúc có hơn 100 vị đỗ bậc đại khoa. Việc học hành ở địa phương được quan lại và nhân dân ở đây
coi trọng. Vĩnh Phúc cũng là quê hương của nhiều bậc đại khoa văn võ
toàn tài, liêm chính đức độ, được triều đình giao phó chức cao quyền
trọng, như Triệu Thái người huyện Lập Thạch là lưỡng quốc tiến sĩ làm
đến chức Thị ngự sử đứng đầu Ngự sử đài và quan giám thị kì thi Đình
Nguyễn Văn Chất người huyện Vĩnh Tường đỗ tiến sĩ làm đến chức Đô ngự sử
và Thượng thư Bộ Hộ. Nguyễn Duy Thì người huyện Yên Lãng đỗ tiến sĩ từ
rất sớm giữ các chức hướng thư Bộ Binh, Tế tửu trường Quốc tử giám. Trên
đất Vĩnh Phúc có nhiều gia tộc, nhiều làng xã hiếu học như xã Sơn Đông
huyện Lập Thạch có tới 13 vị đỗ Tiến sĩ, xã Phú Xuân có 8 vị đỗ Tiến sĩ
và xã Minh Tân, nay là thị trấn Yên Lạc cũng có tới 7 vị đỗ Tiến sĩ.
Vĩnh
Phúc cũng sản sinh ra nhiều hào kiệt có nhiều công lao trong các cuộc
kháng chiến chống bọn xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Dưới thời Lí, Vĩnh Tường
có Nguyễn Văn Nhượng còn được lịch sử khắc ghi với chiến công “Bình Ai
Lao” ở biên
giới miền Tây, Yên Lạc có Phạm Công Bình có công dẹp giặc giữ yên biên
giới phía nam. Dưới thời Trần, trong ba cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên Mông, trên đất Vĩnh Phúc còn lưu truyền câu chuyện "Thất vị Lỗ
Đình Sơn" 7 anh em con ông Lỗ Trọng, quê Lập Thạch đã đánh bại quân
Nguyên cố thủ ở làng Nhật Chiêu, Yên Lạc, chém hơn 1.000
đầu giặc, được vua Trần Thái Tông phong tước Đại Vương, sau khi qua đời
được nhân dân lập đền thờ tại nhiều nơi trong huyện. Trong cả ba cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên Mông, tại phòng tuyến Bình Lệ Nguyên trên
sông Cà Lồ, nhân dân Vĩnh Phúc đã cùng quân binh nhà Trần hợp sức chống
giặc rất anh dũng.
Trong
cuộc kháng chiến chống quân Minh, Trần Nguyên Hãn, hậu duệ nhà Trần,
người đất Sơn Đông, Lập Thạch, sau nhiều năm nung nấu, đã tìm về Lam Sơn
tụ nghĩa dưới trướng Lê Lợi. Là tướng tâm phúc của Lê Lợi, ông có công
lớn trong các chiến thắng lẫy lừng Xương Giang, Đông Quan, Hòa Bình lập
lại, ông được phong chức Tả Tướng Quốc. Nhân dân lập đền thờ ông ở quê hương và coi ông là phúc thần của cả vùng Lập Thạch.
Sang thế kỉ XVII - XVIII khi chế độ phong kiến Việt Nam
dần suy vi, đời sống xã hội khó khăn, nhân dân Vĩnh Phúc đã vùng dậy
khởi nghĩa chống chính quyền. Tiêu biểu hơn cả là cuộc khởi nghĩa của
Nguyễn Danh Phương, còn gọi là Quận Hẻo. Ông người Yên Lạc đã chiêu tập
những người cùng khổ lập căn cứ ở Tam
Đảo, Lập Thạch chống lại sự áp bức của triều đình Lê Trịnh. Đã có lúc
căn cứ của ông đã mở rộng ra cả vùng Sơn Tây, Thái Nguyên và nhiều lần
Nguyễn Danh Phương đem quân tiến sát thủ đô Thăng Long làm cho triều
đình Lê Trịnh phải khốn đốn. Tuy thất bại, nhưng trên đất Vĩnh Phúc vẫn
còn nhiều địa danh ghi dấu những năm tháng hoạt động sôi nổi của nghĩa
quân Nguyễn Danh Phương.
Trong
buổi đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh của nhân
dân Vĩnh phúc dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân yêu nước cũng
liên tiếp nổ ra. Nhiều căn cứ kháng chiến được thành lập khắp vùng Lập
Thạch, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Kim Anh. Trong đó, tiêu biểu là phong trào
của Đốc Giang, Đốc Khoát, Đốc Kết. Nghĩa quân đã tiến công tiêu diệt
nhiều sinh lực địch, gồm cả quân lính Pháp.
Sang
đầu thế kỉ XX, Vĩnh Phúc là địa bàn hoạt động quan trọng của nghĩa quân
Hoàng Hoa Thám, nhất là sau khi nghĩa quân buộc phải rời Phồn Xương.
Trên dải đất từ Tam Đảo xuống tới Kim Anh, Mê Linh của Vĩnh Phúc đã diễn
ra nhiều cuộc chiến đấu anh dũng của nghĩa quân do Cả Huỳnh, Cả Tuyển
chỉ huy, tiêu diệt nhiều quân địch, tiêu biểu nhất là trận Núi Sáng.
Tiếp
sau đó, để phục vụ cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1 mà Pháp là
một bên tham chiến, chính quyền thực dân đã tăng cường vơ vét của cải và
bắt lính đã gây nên một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, nổi bật có cuộc
nổi dậy của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc
Quyến. Cuộc nổi dậy đã dành được thắng lợi ở tỉnh
lỵ Thái Nguyên, nhưng sau đó Trịnh Văn Cấn phải vượt qua Tam Đảo về
vùng Liễn Sơn, Đạo Trù thuộc huyện Lập Thạch tổ chức chiến đấu, tiêu
biểu nhất là trận Hoàng Xá Hạ. Trong trận chiến kéo dài hai ngày này,
binh lính của Đội Cấn đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.
Vào
những năm hai mươi, chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi - Trung Quốc
(1911) Nguyễn Thái Học (người Vĩnh Tường) cùng một số bạn bè đã thành
lập Việt Nam quốc dân đảng theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Dật Tiên
(Trung Quốc). Vĩnh Phúc là địa bàn hoạt động chính của đảng và đã xây
dựng được một số chi bộ ở huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng nổ ra năm 1930 ở Yên
Bái và Vĩnh Phúc đã bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Tuy thất bại,
nhưng cuộc khởi nghĩa đã thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, làm
giàu thêm truyền thống đấu tranh bất khuất trong lòng người dân Vĩnh
Phúc.
Vào đầu những năm ba mươi, Đảng Cộng sản ra đời, hai chi bộ đầu tiên ở Vĩnh Yên và làng Bích Đại được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, phong trào cách mạng ở Vĩnh
Phúc bước sang một giai đoạn mới. Nhân dân Vĩnh Phúc đã tiến hành nhiều
cuộc đấu tranh trong thời kì mặt trận Dân chủ cũng như trong cao trào
đấu tranh tiến tới dành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
1945. Trong hàng ngàn tấm gương chiến đấu anh dũng đó, nổi bật là tấm gương người chiến sĩ cộng sản Lê Xoay. Đứng lên gây dựng phong trào ở Vĩnh
Phúc, đồng chí Lê Xoay được tín nhiệm giao trọng trách đứng đầu Ban cán
sự Đảng liên tỉnh Vĩnh Yên - Phúc Yên, rất tiếc đồng chí đã anh dũng hi
sinh không lâu trước Cách mạng tháng Tám, không được nhìn thấy ngày quê
hương giải phóng.
Trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, Vĩnh Phúc vừa có vùng tự do vừa có vùng bị
tạm chiếm, nhân dân Vĩnh Phúc đã tự nguyện phá toàn bộ hàng trăm biệt
thự trên khu nghĩ mát Tam Đảo, tổ chức nhiều làng kháng chiến, cùng bộ
đội đánh thắng oanh liệt nhiều trận như trận Xuân Bộ năm 1947, trận Xuân
Tranh năm 1950, trận Núi Đanh năm 1951, đặc biệt đã cùng các địa phương
góp phần đánh bại chiến dịch Na va của địch, làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ, chấn động địa cầu năm 1954. Trong 9 năm kháng chiến anh dũng,
lịch sử Vĩnh Phúc đã lưu danh những người anh hùng như Trần Cừ, Chu Văn
Khâm . . .
Trong
thời kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Vĩnh Phúc vừa đẩy mạnh sản xuất bảo
đảm cuộc sống, vừa phải chống cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
của địch đồng thời ra sức chi viện cho chiến trường miền Nam. Ở cả ba mặt trận, nhân dân Vĩnh Phúc đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc với nhiều tập thể anh hùng, cá nhân anh hùng.
Trong
thời kì khôi phục kinh tế sau chiến tranh, nhân dân Vĩnh Phúc đã cố
gắng tìm tòi hướng đi mới, từng bước khắc phục nền kinh tế còn lạc hậu.
Ngày
nay, Vĩnh Phúc là tỉnh nhỏ, đất không rộng, người không đông, song biết
phát huy những ưu thế của mình, dựa vào sức mình, kêu gọi đầu tư nước
ngoài Vĩnh Phúc đã có bước phát triển vượt bậc có tên trong "câu lạc bộ
ngàn tỉ".
Trong
thời kì đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế...Vĩnh Phúc đang có
nhiều phong trào thi đua sôi nổi về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hoá,
quốc phòng, an ninh, quyết tâm xây dựng Vĩnh Phúc thành một tỉnh giàu
mạnh nhất ở đồng bằng Bắc bộ như lời dạy của Hồ Chủ tịch trong dịp Người
về thăm tỉnh.