Sign In

Đảng bộ Vĩnh Phú lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng (1986-1996)

27/11/2014
 

Chọn cỡ chữ A a  

 

 

  In trang

I. ỔN ĐỊNH KINH TẾ - XÃ HỘI, TẬP TRUNG THỰC HIỆN BA CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN (1986-1990)

Sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ V Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú, Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, đạt được những kết quả quan trọng trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp…khắc phục được tình trạng giảm sút kéo dài và tạo được những yếu tố phát triển của nền kinh tế. Đây là thời kỳ đạt được nhiều chỉ tiêu cao nhất so với các kỳ kế hoạch 5 năm trước đó. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch chậm; trình độ thâm canh tăng vụ, năng suất cây trồng, vật nuôi, tỷ suất hàng hóa trong sản xuất nông nghiệp còn thấp; hàng hóa ít, chất lượng kém, phân phối lưu thông sau đợt tổng điều chỉnh giá – lương – tiền (1985) ngày càng rối ren phức tạp. Đời sống nhân dân, nhất là cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang gặp rất nhiều khó khăn.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy một mặt tập trung chỉ đạo, tìm cách tháo gỡ khó khăn nhằm đẩy mạnh sản xuất và ổn định đời sống nhân dân. Mặt khác, chỉ đạo các cấp ủy Đảng triển khai thực hiện Chỉ thị số 79 của Ban Bí thư về cuộc vận động tự phê bình và phê bình trong Đảng; đồng thời chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp theo Chỉ thị số 80-CT/TW của Ban Bí thư nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, tạo điều kiện để tiếp thu và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng và đại hội Đảng các cấp sắp tới.

Việc thực hiện Chỉ thị 79 của Ban Bí thư đã đem lại hiệu quả rõ rệt, tạo nên sự chuyển biến trên nhiều mặt. Tinh thần trách nhiệm và khả năng tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cấp, các ngành được nâng lên một bước. Sản xuất vụ mùa làm nhanh (mặc dù cơn bão số 3 gây nhiều thiệt hại). Việc huy động lương thực năm 1986 làm nhanh gọn, đạt hiệu quả cao hơn so với năm trước. Nhiều địa phương và ngành trong tỉnh dấy lên phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1986. Các ngành kinh doanh, dịch vụ đã cố gắng đảm bảo nhu cầu phân phối theo định lượng, phục vụ các ngành sản xuất và đời sống. Những cố gắng của các ngành, các địa phương bước đầu tạo nên bầu không khí lành mạnh trong đời sống xã hội. Kết quả của việc thực hiện Chỉ thị 79 cũng có tác dụng tốt phục vụ cho đại hội Đảng các cấp chọn được những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực tham gia vào cấp ủy mới.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI từ ngày 23 đến ngày 28/20/1986 tại thành phố Việt Trì. Dự đại hội có 360 đại biểu thay mặt cho 7,7 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú lần thứ V (1983-1985); quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ nhiệm kỳ VI (1986-1990). Đại hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong kế hoạch 5 năm (1986-1990) của tỉnh là: đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, trong đó tập trung hết sức cho sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đồng thời tổ chức lại công tác phân phối lưu thông, ổn định và cải thiện một bước đời sống cán bộ, công nhân, lực lượng vũ trang và nhân dân lao động. Đẩy mạng xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đổi mới cơ chế quản lý. Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục. Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân. Đại hội nêu rõ những chỉ tiêu chủ yếu: tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp bình quân tăng hàng năm 8%, trong đó cây lương thực tăng từ 5 đến 6%, đến năm 1990, sản lượng lương thực đạt 48-50 vạn tấn, bình quân 270-280kg/người; sản lượng thịt các loại đạt 3 vạn tấn, bình quân sản xuất 18kg/người; trồng rừng 5 năm đạt 25 nghìn ha, diện tích cây công nghiệp dài ngày tăng 28 đến 30 nghìn ha, cây công nghiệp ngắn ngày tăng 22 nghìn ha; phấn đấu xuất khẩu đạt trị giá ngoại tệ 30 triệu; tăng tốc độ phát triển công nghiệp địa phương lên 15 đến 18% và đạt giá trị tổng sản lượng 1,5 tỷ đồng (tính theo giá năm 1983); giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 1,7%; điều chuyển 2,5 vạn lao động đi xây dựng kinh tế mới.

Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải tập trung sức củng cố, xây dựng cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh. Chú trọng làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy và đổi mới phong cách lãnh đạo. Củng cố, kiện toàn đồng bộ bộ máy Đảng, chính quyền và đoàn thể từ cấp tỉnh đến cơ sở. Xây dựng quy hoạch cán bộ từ cơ sở đến huyện, tỉnh…

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VI gồm 57 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí. Đồng chí Lê Huy Ngọ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Trần Văn Đăng, Bùi Hữu Hải làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội bầu đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng gồm 32 đồng chí.

Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy Đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nghiên cứu các văn kiện Đại hội, xây dựng các chương trình hành động, từng bước đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống.

Với quan điểm coi sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu, sản xuất lương thực là mục tiêu số một, các địa phương trong tỉnh đã tích cực áp dụng các tiến bộ lỹ thuật vào thâm canh, tăng năng xuất, ứng dụng các giống lúa, ngô có năng xuất cao vào sản xuất; đồng thời sử dụng các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu để chăm sóc, bảo vệ cây trồng. Từng bước chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, mở rộng sản xuất vụ đông. Nhờ vậy, năm 1986, mặc dù có nhiều khó khăn về vật tư, thời tiết, mùa vụ bị úng lụt, sản lượng lương thực toàn tỉnh vẫn đạt 38,7 vạn tấn. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, đặc biệt trong khu vực gia đình. Đàn trâu tăng 1%, đàn bò tăng 8,7%, đàn lợn tăng 2,8% so với năm 1985.

Tuy nhiên, tốc độ phát triển sản xuất còn chậm, các chỉ tiêu, kể cả lương thực, câu công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, chăn nuôi đều thấp. Tình hình sản xuất nông nghiệp đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi phải giải quyết. Ngày 15/4/1987, Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra Nghị quyết số 04-NQ/TU về chương trình lương thực, thực phẩm đến năm 1990. Nghị quyết nêu rõ, đến năm 1990, tỉnh phải tự trang trải nhu cầu ăn, có dự trữ và có lương thực phát triển chăn nuôi từng bước vững chắc. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, Tỉnh ủy đưa ra các giải pháp chủ yếu phát triển lương thực, thực phẩm: chuyển hướng bố trí sản xuất và cơ cấu cây trồng; khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất; tăng cường hệ thống dịch vụ kỹ thuật cho sản xuất trên cơ sở khai thác hợp lý và đầu tư chiều sâu, chú trọng hiệu quả đầu tư và chuyển hẳn sang kinh doanh phục vụ sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật theo hướng áp dụng nhanh và rộng rãi những tiến bộ kỹ thuật về giống lúa, ngô, từng bước ứng dụng tiến bộ về giống một số cây màu, cây công nghiệp, rau đậu và cây ăn quả; gắn tiến bộ về giống với tiến bộ về bố trí cơ cấu cây trồng trên đồng ruộng của hợp tác xã và trong vườn gia đình để tạo ra sản phẩm hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao; cải tiến một số chính sách nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp…

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, các huyện, thành, thị ủy xây dựng chương trình hành động của địa phương mình. Huyện Vĩnh Lạc được chọn làm điểm để rút kinh nghiệm chung. Các địa phương đã tập trung làm công tác thủy lợi; đầu tư chiều sâu hoàn chỉnh thêm một bước và đưa vào sử dụng các công trình tưới tiêu. Năm 1987, diện tích tưới toàn tỉnh đạt 63%, tiêu đạt 85%. Huyện Tam Đảo là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về công tác đắp đê (đợt II) và là điểm sáng về công tác này trong năm 1988, được Ủy ban nhân dân tỉnh gửi thư khen. Bên cạnh đó, các địa phương cũng bố trí lại cơ cấu sản xuất, đưa giống lúa mới ngắn ngày có năng xuất cao vào sản xuất, tạo điều kiện mở rộng diện tích vụ mùa, đẩy mạnh sản xuất và thâm canh cây vụ đông. Hợp tác xã Hợp Thịnh (Tam Đảo) là nơi có sáng kiến trồng cây ngô đông trên nền đất ướt, mở đầu cho phong trào vụ đông ở vùng đồng bằng, sau đó mở rộng đến các vùng trung du, miền núi của tỉnh. Năm 1987, diện tích ngô đông tăng gấp 2 lần năm 1986.

Cũng trong vụ mùa năm 1987, tỉnh đã nghiên cứu khảo sát rút kinh nghiệm việc làm thử phương thức khoán gọn ở một số hợp tác xã trong đó có Hợp tác xã Hoàng Lâu (Tam Đảo)…và tổng kết các hình thức khoán gọn cây ngô, cây lạc và khoán một số ngành nghề khác. Từ đó, Thường trực Tỉnh ủy chủ trương trong vụ đông xuân cho làm điểm ở một số hợp tác xã việc thực hiện khoán sản phẩm-thanh toán gọn. Ngay từ đầu vụ đông-xuân, các huyện và cơ sở đã khẩn trương triển khai chủ trương của Tỉnh ủy. Ban Quản lý Hợp tác xã của Sở Nông- Lâm nghiệp xây dựng đề cương hướng dẫn khoán, tổ chức lớp tập huấn cho cán bộ quản lý huyện, chủ nhiệm 42 hợp tác xã điểm. Cấp ủy, Ủy ban nhân dân các huyện, thành, thị đã nhanh chóng nắm bắt và tập trung chỉ đạo ở cơ sở. Ở nhiều huyện, các đồng chí Bí thư, Thường trực đã trực tiếp chỉ đạo hợp tác xã điểm. Hợp tác xã Tứ Trưng (Vĩnh Lạc) được Sở Nông- Lâm nghiệp trực tiếp chỉ đạo. Các hợp tác xã đã xây dựng kế hoạch khoán gọn cho từng loại cây, con, ngành nghề và xác định rõ tỷ lệ phân phối ba lợi ích trên cơ sở khoán, hoạch toán và phân phối theo từng sản phẩm. Về khoán cây lúa, lợi ích của xã viên được hưởng từ 35-50% sản lượng khoán.

Nhìn chung, việc triển khai làm thí điểm khoán gọn trong vụ đông- xuân đã mang lại kết quả tốt, có tác dụng kích thích xã viên hăng hái sản xuất, hăng hái nhận ruộng khoán; ngăn chặn tình trạng dong công, phóng điểm và lãng phí đến tiêu cực, đảm bảo dân chủ, công khai trong các hợp tác xã. Tuy nhiên, do sống lượng hợp tác xã tham gia thí điểm lúc đầu là 42 hợp tác xã, đến giữa vụ lên tới 167 hợp tác xã nên có nhiều đơn vị lúng túng, thiếu chủ động trong quản lý và điều hành. Các hợp tác xã chưa xác định rõ hiệu quả kinh tế khi khoán gọn sản phẩm các cây, con và ngành nghề. Việc định mức khoán và phương thức khoán giống nhau cho các loại hình hợp tác xã khác nhau ở các vùng khác nhau nên chưa tạo được động lực khuyến khích người lao động.

Để khắc phục một bước những nhược điểm của Chỉ thị 100, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW “Về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp”. Nghị quyết 10 đề ra cơ chế khoán mới, xác định hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã.

Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, ngày 21/4/1988, Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra Nghị quyết số 10-NQ/TU về đổi mới quản lý trong hợp tác xã nông nghiệp nhằm tiếp tục tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Tỉnh ủy chủ trương từ vụ mùa năm 1988 thực hiện rộng rãi trong hợp tác xã nông nghiệp hình thức khoán trên cơ sở xác định mức ngày công và chi phí sản xuất, thanh toán bằng sản phẩm thay thế chế độ thanh toán bằng công điểm. Thực hiện hình thức khoán mới nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, các vùng, ngành; chuyển nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa theo hướng khai thác thế mạnh của từng vùng, giải quyết nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm, tăng thêm nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho tiêu dùng và xuất khẩu, phục vụ tốt  ba chương trình kinh tế lớn.

Tháng 10/1988, Tỉnh ủy Vĩnh Phú phối hợp với các tỉnh Hà Tuyên, Bắc Thái, Hoàng Liên Sơn mở hội nghị trao đổi việc thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và một số vấn đề quan trọng trong lĩnh vực sản xuất nông- lâm nghiệp. Hội nghị nhấn mạnh đến việc thâm canh tăng năng suất trên diện tích nhận khoán, mở mang phát triển ngành nghề, đặc biệt chú trọng phát triển kinh tế gia đình.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có hướng dẫn chung và Ban Quản lý hợp tác xã nông nghiệp chuẩn bị nội dung, tập huấn hướng dẫn về đổi mới công tác quản lý trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Mười ba huyện, thành, thị đã có nghị quyết quy định cụ thể việc tổ chức quán triệt Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Tỉnh ủy cho cán bộ, đảng viên, quần chúng; đồng thời triển khai nhanh việc tập huấn nghiệp cụ cho các cán bộ quản lý hợp tác xã.

Bước vào vụ mùa năm 1988, hầu hết các địa phương trong tỉnh đã triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Tỉnh ủy. Các huyện đã phân loại hợp tác xã theo trình độ sản xuất hàng hóa và trình độ quản lý để có cơ sở khoán cho hợp lý. Sau đó các hợp tác xã tổ chức phân loại hộ để tiến hành giao ruộng khoán, bố trí lao động vào sản xuất, chăn nuôi, ngành nghề thích hợp với khả năng sản xuất của từng loại hộ.

Bên cạnh đó, các hợp tác xã tiếp tục sắp xếp và tổ chức lại bộ máy cho phù hợp với Nghị quyết 10.

Ngày 11/11/1988, Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 15-NQ/TU “Về tiếp tục thực hiện đổi mới quản lý kinh tế trong các hợp tác xã nông nghiệp”. Nghị quyết nhấn mạnh, phải điều chỉnh, bổ sung một số chủ trương về giao khoán đất, khoán cây màu, cây công nghiệp, chăn nuôi, trồng rừng và các ngành nghề khác; tiếp tục chấn chỉnh bộ máy quản lý từ tỉnh, huyện đến cơ sở, trong đó nêu rõ nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Ban Quản trị hợp tác xã là tổ chức tốt dịch vụ cho sản xuất.

Triển khai Nghị quyết của Tỉnh ủy, các huyện, thị đã đẩy mạnh thực hiện Khoán 10 ở tất cả các hợp tác xã nông nghiệp trong toàn tỉnh. Khoán 10 đã tạo nên động lực mới, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển về mọi mặt. Sản lượng lương thực quy thóc bình quân 5 năm 1986-1990 đạt 39,45 vạn tấn, tăng 11% so với bình quân 5 năm trước, riêng năm 1989, đạt xấp xỉ 43 vạn tấn (cao nhất từ trước tới lúc này). Huyện Vĩnh Lạc là nơi đi đầu cả nước trong việc thực hiện Nghị quyết 10. Năm 1988, tổng sản lượng quy thóc đạt 92.622 tấn, là năm có sản lượng lương thực cao nhất và được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh về thăm, kiểm tra thực hiện Khoán 10 ở xã Vân Xuân (Vĩnh Lạc).

Do gắn lao động với đất đai thông qua cơ chế khoán sản phẩm, nông dân đã đầu tư vốn, sử dụng giống mới, thâm canh tăng năng suất. Có tới 70% diện tích lúa cấy giống mới ngắn ngày có năng suất khá, gần ½ diện tích lúa chiêm xuân được sử dụng làm vụ đông, 30% diện tích canh tác đã làm ba vụ chắc ăn. Việc đổi mới cơ cấu mùa vụ, giống mới đã tăng thêm 3-4 vạn tấn lương thực quy thóc, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực cho người và phát triển chăn nuôi. Đàn lợn tăng khá, trọng lượng xuất chuồng bình quân ở đồng bằng, thành phố, thị xã đạt xấp xỉ 100kg, đàn trâu bò tăng 53% so với bình quân 5 năm 1981-1985; diện tích nuôi thả cá tăng 125ha…

Chính sách giao đất ổn định tạo lòng tin cho nông dân phấn khởi sản xuất không những trên đất ruộng, mà cả đất đồi, đất rừng. Chủ trương “Đưa rừng về đồng bằng”, dãn dân và cho mượn đất ở trung du miền núi đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Chỉ sau sáu tháng phát động, các huyện Vĩnh Lạc, Tam Đảo, Lập Thạch đã trồng được trên 2 triệu cây, tương ứng với 200 ha rừng. Năm 1989, toàn tỉnh Vĩnh Phú đã trồng được trên 4.000 ha rừng tập trung chủ yếu theo hướng thâm canh. Cây chè được phục hồi và phát triển. Đất đồi, rừng đã tạo ra nhiều của cải hàng hóa, nâng cao mức sống của nhiều hộ nông dân. Nhờ xóa dần được khoảng cách giữa các vùng, miền và đã có sự tác động hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế (nông, lâm trường liên doanh, liên kết với hợp tác xã, gia đình nông dân làm chè, trồng, bảo vệ rừng, làm dịch vụ cung ứng vật tư và khai thác, chế biến nông, lâm sản…) nên sản xuất kinh doanh phát triển đa dạng, toàn diện. Sản xuất nông nghiệp từng bước gắn với thị trường, kinh tế hàng hóa đã xuất hiện.

Cùng với lĩnh vực nông nghiệp, Tỉnh ủy cũng tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển công nghiệp. Ngày 14/11/1987, Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra Nghị quyết số 07-NQ/TU “Về chương trình sản xuất hàng tiêu dùng đến 1990” Nghị quyết nêu rõ chương trình sản xuất hàng tiêu dùng, gắn bó chặt chẽ với chương trình lương thực, thực phẩm và chương trình xuất nhập khẩu để tạo thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Đẩy nhanh nhịp độ sản xuất những mặt hàng có thế mạnh, tạo điều kiện trao đổi với tỉnh bạn và xuất khẩu nhằm tập trung nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh của nhân dân. Sử dụng hợp lý cơ cấu thành phần kinh tế, coi trọng sản xuất của hợp tác xã thủ công chuyên nghiệp, sản xuất thủ công trong hợp tác xã nông nghiệp, các hình thức tổ hợp, tư nhân và kinh tế gia đình. Cố gắng tạo ra một số mặt hàng mũi nhọn có số lượng khá, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh được với thị trường trong nước và xuất khẩu. Thực hiện đa dạng hóa các mặt hàng để khai thác hết tiềm năng lao động, nguyên liệu và cơ sở vật chất-kỹ thuật của địa phương đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các xí nghiệp.

Thực hiện các chủ trương, chính sách mới của Trung ương và Tỉnh ủy, nhiều xí nghiệp trong tỉnh đã tiến hành sắp xếp lại sản xuất, thực hiện giảm biên chế gián tiếp, rà soát lại định mức lao động, cân đối lại vật tư, chủ động gắn sản xuất với vùng nguyên liệu. Nhờ vậy, sản xuất công nghiệp có những chuyển biến nhất định. Tổng giá trị bình quân 5 năm (1986-1990) tăng so với bình quân 5 năm trước. Tuy nhiên, 3 năm đầu phát triển khá nhưng trong 2 năm 1989-1990 tốc độ phát triển chững lại và có phần giảm sút. Năm 1989, kinh tế quốc doanh hầu như không đạt kế hoạch. Sản xuất công nghiệp địa phương giảm 10%. Năm 1990, tình hình thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu phụ tùng thay thế diễn ra trầm trọng do ảnh hưởng từ sự khủng hoảng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Chính trong khó khăn đó, một số xí nghiệp đã vươn lên, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, bám sát thị trường, sản xuất những mặt hàng mới. Các sản phẩm có khối lượng và giá trị lớn tăng khá như giấy tăng 102,1%, phân lân tăng 63%, vải tăng 43,3%, xi măng tăng 34%, phèn chua tăng 71%. Nhiều sản phẩm mới ra đời như bia, rượu bổ, giấy vệ sinh, bột giặt, gạch chịu lửa, gạch chịu axít, xi măng mác cao, xe ca,…Song, nhìn tổng thể công nghiệp thời này phát triển chậm, tổng giá trị sản lượng chỉ đạt 66,5% so với chỉ tiêu Đại hội VI của Đảng bộ tỉnh đề ra, riêng công nghiệp địa phương chỉ đạt 59%.

Về xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại, sau khi có Nghị quyết ngày 27/7/1987 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về chương trình xuất nhập khẩu, đến năm 1990, các cấp ủy Đảng đã chỉ đạo nhân dân phát huy thế mạnh về lao động và đất đai của địa phương, tập trung phát triển năm loại cây chủ lực là chè (Lập Thạch), chuối và đay (Vĩnh Lạc), lạc (ở đồng bằng và trung du), và cây sơn để tạo ra sản phẩm hàng xuất khẩu. Trong các năm từ 1986 đến 1990, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh tăng hai lần so với 5 năm trước, bình quân mỗi năm đạt 10,2 triệu rúp và đôla. Năm 1990, đạt 13 triệu là mức cao nhất so với trước đây. Tuy nhiên, xuất khẩu phát triển chậm, chỉ đạt 66% chỉ tiêu Đại hội VI Đảng bộ tỉnh đề ra, nguyên nhân là do các đọa phương chưa khai thức hết tiềm năng sản xuất nông, lâm nghiệp và công nghiệp; công nghiệp chế biến lạc hậu, xuất nguyên liệu thô còn phổ biến; công tác quản lý còn buông lỏng nên hiệu quả thấp, nhất là từ đầu năm 1990, thị trường các nước Đông Âu và Liên Xô có những biến động bất lợi cho công tác xuất nhập khẩu.

Kinh tế đối ngoại bước đầu thu hút được viện trợ của các tổ chức quốc tế. Trong 5 năm 1986-1990, tỉnh thu hút được 5 triệu đô đầu tư cho các công trình thủy lợi, các chương trình về trồng rừng, y tế, giáo dục, xây dựng nông thôn…

Công tác kế hoạch, tài chính, giá cả, ngân hàng đã từng bước được đổi mới phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới. Thực hiện thống nhất cơ chế một giá đối với vật tư và hàng tiêu dùng, thực hiện tự do lưu thông hàng hóa, tổ chức lại hệ thống ngân hàng theo đúng chức năng quản lý Nhà nước và chuyên doanh, tích cực chống lạm phát làm cho tình hình kinh tế năm 1989-1990 từng bước được ổn định.

Cùng với việc tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, lĩnh vực xã hội cũng được các cấp ủy Đảng quan tâm. Các địa phương đã củng cố hệ thống y tế cơ sở, sắp xếp lại lực lượng cán bộ, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ y, bác sĩ, y tá, hộ lý; đồng thời đẩy mạnh công tác phòng, chống các dịch bệnh, thực hiện phong trào năm dứt điểm, lồng ghép nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình được chú trọng. Sau khi có Chỉ thị số 05 của Tỉnh ủy về đẩy mạnh công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, Ủy ban nhân dân tỉnh tiến hành củng cố hoạt động của Ủy ban Dân số- Kế hoạch hóa gia đình và Ban chỉ đạo cuộc vận động ở các huyện, thành, thị, các cơ quan, công trường, xí nghiệp; đồng thời đầu tư kinh phí phục vụ cho các hoạt động dịch vụ sinh đẻ có kế hoạch. Nhờ vậy, tốc độ phát triển dân số tự nhiên giảm từ 2,37% năm 1986 xuống 2,19 năm 1990.

Công tác giáo dục, đào tạo tiếp tục giữ được ổn định. Trong các năm 1987-1990, ngành giáo dục tập trung vào nhiệm vụ củng cố và từng bước phát triển sự nghiệp giáo dục cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của tỉnh. Sở Giáo dục và đào tạo từng bước tiến hành đổi mới công tác đào tạo, xây dựng lại danh mục ngành nghề, cơ cấu ngành học của các trường chuyên nghiệp, quy hoạch mạng lưới trường, lớp, mở rộng giáo dục phổ thông, đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Năm 1990, toàn tỉnh có 2.132 lớp mẫu giáo với 2.124 giáo viên, 60.583 cháu; 492 trường phổ thông cơ sở, bao gồm 10.237 lớp, 357.925 học sinh; 136 trường phổ thông trung học với 461 lớp và 16.684 học sinh. Hệ thống giáo dục trung học chuyên nghiệp, cao đẳng cũng không ngừng tăng về số lượng học sinh và chất lượng đào tạo. Trong ba năm 1988-1990, các trường chuyên nghiệp của tỉnh đã đào tạo được 1.206 công nhân ký thuật tập trung vào các ngành nghề như chế tạo, lắp ráp, sửa chữa máy, dệt da, may mặc, xây dựng…

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin bắt đầu có chuyển biến tốt với nhiều hình thức, nội dung phong phú, đa dạng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tinh thần của nhân dân. Trong hai năm 1986-1987, các phòng văn hóa -thông tin huyện, ban văn hóa-thông tin xã được kiện toàn và đi vào hoạt động, sáu phong trào văn hóa ở cơ sở được triển khai rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Phong trào văn nghệ quần chúng, nhất là ca hát tập thể, hội diễn nghệ thuật quần chúng phát triển đã động viên tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần hăng say lao động sản xuất của nhân dân. Đặc biệt, sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra Nghị quyết số 12-NQ/TU “Về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở”, các địa phương đẩy mạnh hoạt động thông tin cổ động, phong trào xây dựng nếp sống mới, phong trào đọc sách báo, hoạt động văn hóa, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân còn có sự chênh lệch đáng kể giữa thành thị và nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa.

Trước tình hình chính trị trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ráo riết hoạt động hòng phá hoại công cuộc xây dựng đất nước, Tỉnh ủy đặc biệt quan tâm đến công tác an ninh, quốc phòng. Tỉnh ủy đã chỉ đạo xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc theo tinh thần Nghị quyết số 02 của Bộ Chính trị. Bộ Chủ huy quân sự tỉnh thường xuyên củng cố, bổ sung, hoàn thiện phương án phòng thủ cơ bản ở cả ba cấp tỉnh, huyện và cơ sở; từng bước xây dựng và hoàn thiện phương án bảo vệ an ninh chính trị, đặc biệt chú trọng các địa bàn trọng yếu. Lực lượng vũ trang thường trực không ngừng được kiện toàn, củng cố tổ chức, đảm bảo đủ số lượng đáp ứng yêu cầu trong mọi tình huống. Công tác quản lý lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được tổ chức theo hướng biên chế gọn nhẹ.

Thực hiện Nghị quyết số 07 của Bộ chính trị, công tác an ninh, trật tự bước đầu đã có sự đổi mới. Tỉnh đã chủ động xây dựng phương án đột xuất, bảo đảm ổn định chính trị; đồng thời củng cố tổ chức, sắp xếp lại lực lượng công an nhân dân toàn tỉnh theo hướng gọn nhẹ, bố trí theo tuyến địa bàn trọng điểm và tăng cường cán bộ cơ sở. Do đó những biện pháp chủ động và tích vực, nên lực lượng công an tỉnh đã phát hiện được một số tài liệu có nội dung phản động từ nước ngoài gửi vào địa phương, kịp thời ngăn chặn những hoạt động của địch và những vụ án hình sự gây diễn biến phức tạp ở cơ sở. Phong trào quần chúng tấn công tội phạm được phát động và duy trì ở nhiều nơi đã từng bước xây dựng được ý thức “Tự quản” ở cơ sở. Nhiều nơi đấu tranh có hiệu quả với các phần tử xấu, vận động các đối tượng phạm pháp ra đầu thú. Tuy nhiên, tình hình trật tự xã hội còn diễn biến phức tạp, tội phạm hình sự ngày càng nghiêm trọng, tệ trộm cướp, trấn lột, buôn lậu, lừa đảo là những vấn đề bức xúc làm cho nhân dân lo lắng. Nhiều vụ điều tra xử lý còn chậm, thiếu kiên quyết. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trách nhiệm chưa cao, có những biểu hiện tiêu cực làm giảm lòng tin của nhân dân.

Trước tình hình một số cán bộ, đảng viên vi phạm khuyết điểm, giảm sút ý chí chiến đấu và tinh thần trách nhiệm, ngày 12/9/1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 04-NQ/TW về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.

Triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Vĩnh Phú lập kế hoạch hướng dẫn cụ thể các cấp, các ngành và tổ chức hội nghị cán bộ để quán triệt cuộc vận động, tổ chức chỉ đạo bốn điểm để rút kinh nghiệm chung. Việc thực hiện nghị quyết được chia làm hai bước. Trong bước 1, toàn tỉnh có 81% số đảng viên tham gia học tập, quán triệt nghị quyết. Qua học tập, đông đảo cán bộ, đảng viên đã nắm được tính chất, yêu cầu, nội dung, phương châm cuộc vận động. Nhiều cơ sở tổ chức phổ biến nghị quyết cho cả quần chúng và cán bộ ngoài Đảng học tập. Để làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, Tỉnh ủy triển khai cuộc vận động tử tỉnh đến cơ sở; đồng thời gắn với việc tiếp tục chỉ đạo thực hiện bốn chương trình kinh tế- xã hội. Qua việc đấu tranh phê bình và tự phê bình, các cấp ủy Đảng đã phân tích chất lượng đảng viên và xử lý những đảng viên vi phạm. Số đảng viên được xem xét phân tích về chất lượng ở 12 huyện, thành, thị là 72.850 đảng viên (88,7% tổng số đảng viên). Trong đó, số đủ tư cách chiếm 83,5%. Đảng bộ tỉnh đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức 1.908 đảng viên (khiển trách 46,7%, cảnh cáo 38,3%, cách chức 6,45%, khai trừ 8,55%). Chỉ riêng huyện Tam Đảo đã xử lý kỷ luật 364 cán bộ, đảng viên, trong đó 58 cấp ủy cơ sở, 2 bí thư đảng ủy, 5 chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, 4 chánh, phó giám đốc công ty.

Việc xử lý kỷ luật có tác dụng giáo dục và hạn chế những tiêu cực, từng bước làm trong sạch đội ngũ đảng viên, giúp cho tổ chức cơ sở quản lý đảng viên chặt chẽ hơn.

Năm 1989, tình hình chính trị ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và ở khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Để giữ vững ổn định chính trị, tháng 8/1989, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) ra Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, ngày 31/3/1989, Ban thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 18-NQ/TU về “Phương hướng, nhiệm vụ công tác tư tưởng trong hai năm 1989-1990” nhằm nâng cao các nhận thức chính trị và lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Nghị quyết khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng là phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới của Đảng; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúo cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp cận với quan điểm mới của Đảng, tạo được sự nhất trí trong Đảng. Trước hết, chú trọng phục vụ việc thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tập trung cho các chương trình kinh tế-xã hội, phát huy tinh thần sáng tạo của nhân dân lao động, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển…, tập trung xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Trong thời gian này, các cấp ủy Đảng cũng tập trung củng cố tổ chức cơ sở Đảng, sắp xếp lại cho phù hợp với từng địa phương. Sau khi thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về củng cố xã, phường, hầu hết các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội đều có cơ sở Đảng lãnh đạo, số lượng đảng viên tăng 8.259 người.

Theo yêu cầu mới, bộ máy tổ chức từ tỉnh đến huyện, thành, thị, được sắp xếp lại và thực hiện một bước giảm biên chế. Cơ quan đảng ở cấp tỉnh giảm từ 11 xuống 8 đầu mối; ở huyện, thành, thị giữ nguyên 5 đầu mối, giảm được 30% biên chế. Đoàn thể ở cấp tỉnh, huyện giảm được 4,5% biên chế. Cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh giảm từ 36 xuống 25 đầu mối; ở cấp huyện giảm từ 21 xuống còn 11 phòng, ban; biên chế ở tỉnh, huyện đều giảm được 30%. Ở cấp xã, phường thực hiện tinh giản bộ máy Đảng, chính quyền, hợp tác xã, đã giảm được 40% biên chế.

Đi liền với sắp xếp tổ chức và giảm biên chế, Tỉnh ủy chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ, xử lý cán bộ yếu kém và quy hoạch các loại cán bộ. Trong 5 năm 1986-1990, tỉnh đã cử 45 cán bộ đi học nước ngoài, 218 người học tại các trường của Trung ương, đào tạo tại chức 782 cán bộ xã, phường ở Trường Đảng tỉnh và Trường Đảng huyện, thành, thị. Trung tâm Đại học tại chức, Trường Hành chính tỉnh cũng mở nhiều lớp đào tạo đại học, trên đại học về quản lý kinh tế, pháp lý và quản lý nhà nước. Nhờ làm tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành đã có bước trưởng thành, thích ứng với cơ chế quản lý kinh tế mới. Số cán bộ có trình độ đại học tăng; Tỉnh ủy từ 46,6% tăng lên 64,9%, Ban Thường vụ từ 30 lên 77%, các huyện, thành, thị ủy từ 24,4% lên 35,2%; Đảng ủy xã từ 9,3% lên 10,1%. Căn cứ vào năng lực cán bộ và nhu cầu công tác, các cấp ủy Đảng đã sắp xếp, điều chuyển bố trí cán bộ theo hướng dân chủ hóa. Công tác quy hoạch cán bộ được xây dựng và bổ sung thường xuyên đã phát huy tác dụng trong việc hình thành đội nghũ cán bộ kế cận cho cấp ủy, chính quyền cấp tỉnh và huyện.

Công tác xây dựng chính quyền được các cấp ủy Đảng tăng cường lãnh đạo. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp được sắp xếp lại và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đề cao được vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Tháng 11-1989, Tỉnh ủy lãnh đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phú khóa VII (nhiệm kỳ 1989-1994) với 99,47% cử tri trong toàn tỉnh tham gia. Ngày 12/8/1991, huyện Mê Linh được giao trở lại tỉnh Vĩnh Phú theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng (năm 1979, huyện Mê Linh sáp nhập vào thành phố Hà Nội).

Sau gần 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phú đã vượt qua nhiều khó khăn và thử thách, phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Giải quyết một bước quan trọng về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Hoạt động kinh tế của Vĩnh Phúc chuyển dần sang sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần, từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, hàng hóa phong phú đa dạng hơn. Đời sống của nhân dân được cải thiện một bước cả về vật chất và tinh thần.

Hoạt động của Đảng, đoàn thể và chính quyền có một số đổi mới, tiến bộ. Việc chính đốn Đảng gắn với chống tham nhũng đem lại một số kết quả bước đầu. Sinh hoạt trong Đảng, đoàn thể và ngoài xã hội đã dân chủ hơn. Đây là cơ sở giúp cho toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh vững tin vào đường lối đổi mới của Đảng và tiếp tục phát huy trong giai đoạn tiếp theo.

II. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI (1991-1996)

Thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW của Trung ương Đảng về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp từ ngày 25 đến ngày 28/4/1991, tỉnh Vĩnh Phú tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VII Đảng bộ tỉnh (vòng 1). Dự Đại hội có 371 đại biểu thay mặt hơn 9 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã tiến hành thảo luận đóng góp ý kiến vào các văn kiện (dự thảo) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc gồm 30 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết. Đại hội thông qua chương trình hành động lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tiến hành từ 24 đến 27/6/1991 tại thủ đô Hà Nội. Với tinh thần Đại hội của Trí tuệ - Đổi mới - Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết, Đại hội tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, rút ra năm bài học kinh nghiệm trong tiến trình đổi mới, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000. Đại hội khẳng định tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Đảng lấy chủ nghía Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đại hội lần thứ VII của Đảng có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử của Đảng. Với Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và những chính sách cụ thể, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta đã hình thành rõ nét; đồng thời phản ánh quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng từ ngày 18 đến 20/11/1991, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú tổ chức đại hội lần thứ VII (vòng 2). Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VI và chỉ rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, những kinh nghiệm của quá trình đổi mới. Đại hội đề ra phương phướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1991-1995 của tỉnh là: Giữ vững ổn định chính trị, ổn đinh và phát triển một bước kinh tế-xã hội, bảo đảm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Giải quyết phần lớn việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số. Nâng cao chất lượng y tế, văn hóa, giáo dục, tăng cường sức khỏe, nâng cao hưởng thụ văn hóa và trình độ dân trí cho nhân dân phù hợp với nền kinh tế. làm tốt công tác quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đổi mới sự hoạt động của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Phát huy dân chủ xã hội, chủ nghĩa đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội.

Đại hội nêu rõ một số mục tiêu chủ yếu đến năm 1995; tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân hàng hăn từ 5,5-6%; sản lượng lương thực quy thóc đạt 54-55 vạn tấn (trong đó 42-43 vạn tấn thóc, 12 vạn tấn màu) tăng khoảng 10% so bình quân 5 năm trước; lương thực bình quân 240kg/người (bình quân 1 khẩu nông nghiệp là 290kg); tổng kim ngạch xuất khẩu đến cuối kỳ kế hoạch đạt 25 triệu USD; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,9%; tăng mức thu nhâọ thực tế của nông dân từ 15 đến 20%, của khu vực thành thị từ 20-25%, giảm bớt số hộ đói nghèo.

Đại hội chủ trương xây dựng cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Phát triển nông, lâm nghiệp toàn diện gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu; phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VII gồm 49 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy 13 đồng chí. Đồng chí Trần Văn Đăng được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Bùi Hữu Hải, Hoàng Xuân Duyệt được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

Ngay sau Đại hội, Đảng bộ các cấp trong tỉnh tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nắm vững Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh.

Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh, Vĩnh Phú cũng trong tình trạng khó khăn chung của đất nước. Bọn đế quốc và các lực lượng thu địch quốc tế tăng cường cấu kết với bọn phản động và các lực lượng thù địch quốc tế tăng cường cấu kết với bọn phản động trong nước ra sức tuyên truyền quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xuyên tạc đường lối của Đảng, chia rẽ nội bộ Đảng và nhân dân, âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tình hình thế giới có những biến động không có lợi cho ta. Nguồn vay từ bên ngoài giảm mạnh, nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng kên. Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nền kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn do cơ chế cũ để lại và những phức tạp phát sinh trong quá trình đổi mới. ngân sách thiếu hụt, đời sống nhân dân còn khó khăn. Tốc độ tăng dân số cao, lao động chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm còn nhiều.

Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh cũng có những thuận lợi. Đường lối đổi mới của Đảng đã và đang đi vào cuộc sống, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định rõ những cấn đền cơ bản về định hướng, quan điểm, bước đi trong quá trình xây dựng đất nước. Tiềm năng kinh tế của tỉnh phong phú, đa dạng. Đội nghũ cán bộ đã trưởng thành một bước cả về trình độ tư duy và năng lực quản lý.

Trong hai năm 1991-1992, các cấp ủy Đảng tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp toàn diện, triển khai thực hiện chương trình phát triển lương thực, thực phẩm 1992-1995 của tỉnh; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Khoán 10 ở địa phương. Nhờ những biện pháp chủ đạo tích cực và sự nỗ lực của toàn dân, sản xuất nông, lâm nghiệp có bước phát triển mới. Năm 1992, tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh đạt trên 230 nghìn ha, tăng trên 26 nghìn ha và tăng 16,8% so với năm 1988. Hệ số sử dụng ruộng đất bình quân đạt 1,85 lần (trước khoán 10 chỉ đạt 1,65%). Năng suất thóc bình quân trước khoán 10 đạt 24 tạ/ha, sau khoán 10 đạt trên 25,6 tạ/ha. Sản lượng lương thực bình quân trước khoán 10 đạt 43,8 vạn tấn, năm 1992 đạt trên 52 vạn tấn. Diện tích trồng rừng tập trung đạt 6.925 ha, tăng gấp năm lần so với năm 1988. Chăn nuôi cũng có bước phát triển khá.

Cùng với sự phát triển của sản xuất, đời sống của nhân dân không ngừng tăng lên. Nhiều địa phương đã xây dựng được cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và đời sống như hệ thống điện - đường - trường - trạm. Năm 1992, huyện Vĩnh Lạc có 38/45 xã có điện, huyện Lập Thạch có 17/38 xã có điện…

Mặc dù đã đạt được những kết quả khá, quá trình thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị đã bộc lộ những khó khăn và tồn tại mới về vấn đề đất đai, cơ chế quản lý của hợp tác xã; mặt khác, một số chính sách của Trung ương cũng như của Tỉnh ủy ban hành những năm trước đây đã có nhiều điểm không còn phù hợp với cơ chế mới.

Để khắc phục tình trạng trên, đầu năm 1992, Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 04 về việc tiếp tục đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Sau khi có Nghị quyết, các huyện, thành, thị đã khẩn trương tổ chức thực hiện. Hầu hết các nghị quyết, đề án hoặc chương trình kế hoạch của các huyện, thành, thị đã bám sát tinh thần Nghị quyết của Tỉnh ủy, tập trung giải quyết hai vẫn đề cơ bản là: điều chỉnh đất đai, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ xã viên; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ban quản lý hợp tác xã.

Năm 1993, toàn tỉnh có 536/730 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất điều chỉnh xong đất đai theo Quyết định số 450 của Ủy ban nhân dân tỉnh.

Về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các hợp tác xã, các địa phương đã thống nhất ba tiêu thức chủ yếu để phân tích, đánh giá hợp tác xã. Qua phân tích, đánh giá ở các huyện, thành, thị, trong số 690 hợp tác xã tham gia phân loại có 554 hợp tác xã có thể chuyển đổi (chiếm 80,28%), 136/690 hợp tác xã không có khả năng chuyển đổi (chiếm 19,72%). Song, trên thực tế, số hợp tác xã có đủ tiềm lực về vốn, năng lực, cán bộ biết kinh doanh dịch vụ, có điều kiện chuyển đổi chỉ chiếm 30-40% tổng số hợp tác xã.

Sau việc sắp xếp lại, bộ máy Ban Quản lý hợp tác xã được tổ chức lại gọn nhẹ, nhiều hợp tác xã tổ chức dịch vụ được nhiều khâu bước đầu có hiệu quả. Vốn quỹ, tài sản hợp tác xã được kiểm kê xác định lại, thực hiện khoán bảo tồn sử dụng vốn và cơ sở vật chất phục vụ sản xuất.

Tuy nhiên, kết quả đạt được trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết số 04 của Tỉnh ủy ở cơ sở không đều, còn 200 hợp tác xã chưa duyệt phương án điều chỉnh đất với huyện, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ xã viên chậm. Nhiều hợp tác xã lúng túng trong đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý. Tổ chức dịch vụ còn đơn điệu. Hợp tác xã chưa tạo điều kiện tác động cho kinh tế hộ phát triển.

Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, tháng 6/1993, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương, khóa VII ra Nghị quyết “Về việc tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn”. Hội nghị nhấn mạnh quan điểm phải đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ nội dung, phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn, kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, đặc biêu nêu rõ năm quyền (được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp).

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) và vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương, ngày 5/8/1993, Tỉnh ủy Vĩnh Phú đã có Đề án số 08 hướng dẫn các huyện, thành, thị ủy tổ chức triển khai Nghị quyết Trung ương. Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt học tập nghị quyết và thảo luận Đề án 08 của Tỉnh ủy. Sau đó, quán triệt cho các cấp cơ sở nắm vững các quan điểm của Đảng xây dựng đền án, tổ chức thực hiện.

Các địa phương đã tập trung phát triển sản xuất lương thực và mở rộng gieo trồng những cây có hiệu quả kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ. Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuát, nâng cao chất lượng giống lúa, giống ngô ở vùng trọng điểm lương thực. Thay đổi cơ cấu mùa vụ, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, phá thế thuần nông độc canh. Đẩy mạnh công tác khuyến nông, thủy lợi. Khẩn trương thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân. Từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp, đưa máy móc cơ khí nhỏ vào phục vụ phát triển kinh tế nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo định hướng phát triển công nghiệp-dịch vụ ở nông thôn, mở rộng ngành nghề, thực hiện xóa đói giảm nghèo…

Nhờ thực hiện tốt Nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp và dịch cụ tăng lên, nông, lâm nghiệp giảm xuống. Tỷ trọng cơ cấu kinh tế trong GDP giữa nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ năm 1990 là 54,01%-19,21%-26,78% thì năm 1995 chuyển thành 42,85%-22,65%-34,5%.

Kinh tế nông, lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng phương hướng Đại hội Đảng bộ đề ra. Vùng đồng bằng (các huyện Vĩnh Lạc, Mê Linh, Nam Tam Đảo), là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm. Sản phẩm chủ yếu là lương thực, rau đậu, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, thủy sản, trong đó gà công nghiệp, thủy sản và các loại cây, con đặc sản phát triển khá nhanh. Vùng trung du tập trung phát triển cây chè, cây nguyên liệu giấy, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, lợn và gia cầm. Miền núi sản xuất nguyên liệu giấy tập trung ở các huyện Tam Đảo và Lập Thạch. Ngoài ra, đan xen giữa các huyện, các vùng đã thành các tiểu vùng như vùng sản xuất nguyên liệu mía, quế, rau, đậu quanh thành phố và thị xã…

Cơ cấu các ngành trồng trọt cũng có sự chuyển biến. Kết quả quan trọng nhất là bước đầu giải quyết được lương thực, chuyển dịch được cơ cấu mùa vụ, cơ cấy cây trồng. Vụ đông trở thành vụ sản xuất chính ở vùng đồng bằng và diện tích và ngày càng được mở rộng. Do áp dụng những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật nông nghiệp như giống, phân bón, bảo vệ thực vật, tưới tiêu và kỹ thuật thâm canh, năng suất cây trồng không ngừng tăng lên. Trong 5 năm 1991-1995, năng suất lúa ở riêng địa bàn Vĩnh Phúc tăng bình quân 1,79tạ/ha, năm 1996 đạt 30,02tạ/ha; năng suất ngô bình quân tăng 1,86tạ/ha, năm 1996 đath 29,2tạ/ha…; Sản lượng lương thực quy thóc có tốc độ tăng bình quân là 6,85%/năm, năm 1996 tuy cí giảm do thiên tai song vẫn đạt mức trên 30 vạn tấn. Bình quân lương thực đầu người là 286,4kg.

Diện tích rau xanh và cây thực phẩm không ngừng tăng, năm 1996 đạt trên 6.000ha, bảo đảm đủ tiêu dùng trong tỉnh và cung cấp cho Hà Nội, Việt Trì và một số tỉnh phía bắc. Đặc biệt là diện tích rau cao cấp phát triển ở các cùng Mê Linh, Vĩnh Yên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, nâng cao thu nhập trên diện tích canh tác của người nông fân. Một số cây công nghiệp như lạc, đậu tương, mía, dâu tằm…được tập trung phát triển làm nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Việc mở rộng diện tích trồng hoa ở Mê Linh, Vĩnh Yên đã nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Cây ăn quả và cây công nghiệp dài ngày phát triển chủ yếu ở các huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Mê Linh có sản lượng hàng năm liên tục tăng lên, đặc biệt là chuối xuất khẩu. Các địa phương đã cho trồng thử nghiệm chuối mô và đạt kết quả tốt. Vườn nhà, vườn đồi và các trang trại được cải tạo lại trồng các cây có giá trị kinh tế cao. Đây là một hướng chuyển dịch cơ cấu quan trọng trên cả hai mặt. Kinh tế thuần nông ngoài đồng ruộng, từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa và phát triển kinh tế gia đình VAC. Năm 1995, toàn tỉnh có trên 300 trang trại làm kinh tế hiệu quả cao. Nhờ vậy, tỷ trọng cơ cấu thu nhập kinh tế trong gia đình thay đổi.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng. Tỷ trọng cơ cấu thu nhập kinh tế trong gia đình thay đổi.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng. Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu giá trị sản lượng ngành nông nghiệp tăng lên. Năm 1992, cơ cấu giá trị tổng sản lượng nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi là 68,4% và 31,6%, đến năm 1994, cơ cấu đó là 64,7% và 35,83%. Chương trình sin hóa đàn bò và nạc hóa đàn lợn đã được mở ra hướng phát triển chăn nuôi hàng hóa có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.

Nuôi trồng thủy sản cũng là một trong những hướng chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp và có hiệu quả rõ rệt. Các hộ gia đình nhận đấu thầu, nhận khoán ao hồ, đầm nuôi thả cá, đã chủ động đầu tư cải tạo lại ao hồ, tổ chức sản xuất kinh doanh ổn định lâu dài. Năm 1996, Vĩnh Phúc cung cấp gần 2.500 tấn thủy sản các loại.

Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, từng bước khắc phục tình trạng thuần nông, Tỉnh ủy chú trọng chỉ đạo khôi phục làng nghề truyền thống và mở thêm các ngành nghề mới, chuyển một bộ phận đáng kể lao động nông nghiệp sang làm tiểu, thủ công nghiệp và dịch vụ, từng bước tạo ra sự phân công lại lao động, giải quyết việc làm và đời sống cho hơn 30% lao động thiếu việc làm. Năm 1993, tỉnh Vĩnh Phú phát động năm giao thông nông thôn, đã huy động gần 30 tỷ đồng cho việc làm mới, tu sửa đường, cầu cống, nên đã giải quyết một bước căn bản việc đi lại và vận tải bằng xe cơ giới nhỏ trong nông thôn. Một số nơi đã đưa máy móc cơ khí vào để nâng cao năng suất lao động như máy cưa, bào, dập gạch ngói…Bộ mặt nông thôn có chuyển biến. Năm 1994, 47% số hộ nông dân đã có điện sử dụng phục vụ sản xuất và đời sống.

Cùng với sự phát triển của hệ thống giao thông nông thôn và điện lưới, các chợ nông thôn và các tụ điểm kinh tế cũng được hình thành. Năm 1994, 56% số xã có chợ. Việc mua bán, trao đổi hàng hóa thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho sản xuất của các làng nghề phát triển: gạch ngói Hương Canh; Quất Lưu (Tam Đảo); mộc, rèn Lý Nhân (Vĩnh Lạc); nuôi cá lòng Tráng Việt (Mê Linh); nuôi rắn Vĩnh Sơn (Vĩnh Lạc); buôn bán dịch vụ Thổ Tang (Vĩnh Lạc)…Nhiều ngành nghề mới được đưa vào nông thôn: xã Tề Lỗ (Vĩnh Lạc) có 32 ngành nghề, Đại Đồng (Vĩnh Lạc) có 22 ngành nghề. Xã Đức Bác (Lập Thạch) từ một xã thuần nông đến năm 1994 đã có 40% lao động với hàng nghìn tấn phương tiện vận tải thủy chuyên chở đồ Bát Tràng đến hầu khắp các tỉnh.

Trong sản xuất lâm nghiệp, các địa phương đẩy mạnh thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho hộ xã viên, thực hiện phủ xanh đất trống đồi trọc bằng các chương trình PAM, 327, 120. Tích cực trồng rừng theo dạng hỗn giao và trồng cây phân tán để nâng cao độ che phủ của rừng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp giấy và làm hàng thủ công mỹ nghệ. Mở rộng các hình thức nông lâm kết hợp, phát triển mạnh kinh tế vườn, rừng theo hộ nông dân. Trong 5 năm 1991-1995, bình quân mỗi năm toàn tỉnh trồng được 5.000ha rừng, góp phần bảo vệ môi trường sinh tháu du lịch, nhất là khu nghỉ mát trên rừng cấm quốc gia Tam Đảo và khu vực Đại Lải-Mê Linh.

Nhờ chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp toàn diện cùng với việc tiếp tục duy trì phong trào nông dân thi đua sản xuất giỏi, kinh tế hộ gia đình nông dân đã phát triển mạnh mẽ, toàn diện, phong phú. Mô hình kinh tế VAC, kinh tế trang trại được mở rộng. Nhiều điển hình hộ nông dân làm ăn giỏi trở nên giàu có. Số hộ nông dân đạt danh hiệu “Hộ nông dân sản xuất giỏi” cả ba cấp tăng từ 74.000 hộ (1992-1993) lên 83.000 hộ (1993-1995) chiếm 19,3% số hộ nông nghiệp.

Cùng với số hộ giàu tăng, số hộ nghèo giảm đi. Trong ba năm 1993-1995, thực hiện nghị quyết số 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xóa đói giảm nghèo, toàn tỉnh xóa và giảm được 11.500 hộ nghèo đói, chiếm 17,2% tổng số hộ nghèo đói và bừng 34% so với mục tiêu kế hoạch. Trong đó, đã xóa được 2.000 hộ đói (bằng 14% tổng số hộ đói) và giảm được 9.500 hộ nghèo (bằng 17,9% tổng số hộ nghèo).

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được Tỉnh ủy tập trung chủ đạo. Đầu năm 1992, Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết về việc sắp xếp, chấn chỉnh, đổi mới và phát triển công nghiệp, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Giữa năm 1994, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Trung ương 7, Tỉnh ủy xây dựng đề án phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các doanh nghiệp tiến hành đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ lò tuynen sản xuất vật liệu xây dựng như gốm Hợp Thịnh, gốm Tam Đảo, gạch Bồ Sao…Những cơ sở này tiêu thụ sản phẩm khá nên giá trị sản xuất tăng từ 15 đến 20%/năm.

Một số ngành khác như chế biến nông sản, thực phẩm, khai thác và chế biến khoáng sản, hóa chất…có tốc độ phát triển khá. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm 1991-1995 tăng 13,75%. Song, nhìn chung, công nghiệp phát triển chậm, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế thấp. Công nghiệp ngoài quốc doanh liên tiếp trong ba năm 1994,1995,1996 sản xuất giảm sút do khó khăn về nguồn nguyên liệu, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp không tiêu thụ được sản phẩm. Một số làng nghề truyền thống ở Vĩnh Tường, Mê Linh, Lập Thạch chưa được phục hồi, chỉ dừng ở quy mô sản xuất nhỏ. Các thành phần kinh tế và khu vực kinh tế chưa tạo thế hỗ trợ cho nhau. Công nghiệp chế biến mới hình thành rõ ngành sản xuất vật liệu xây dựng, còn công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm nhiều năm không phát triển, thậm chí phải ngừng sản xuất do thua lỗ kéo dài như Nhà máy thức ăn gia súc Hương Canh, Nhà máy Hoa quả hộp Tam Dương…Công nghiệp giày da, may mặc mới được phát triển ở Mê Linh, Vĩnh Yên. Những nhà máy có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài là Công ty Mút xốp Việt Khánh và Công ty Toyota Việt Nam đi vào sản xuất giai đoạn đầu.

Trong thời gian này, tỉnh chú trọng chỉ đạo xây dựng các dự án để kêu gọi vốn đầu tư của nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ và Liên hợp quốc, thu hút ngoại tệ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh từ năm 1993 tăng khá ở hầu hết các khu vực và thành phần kinh tế. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Vĩnh Phúc, trong hai năm 1995-1996 là 1.171 tỷ đồng, một số công trình đầu tư có vốn hàng nghìn tỷ đồng như Công ty Honda, Công ty Toyota. Đây là những điều tiền đề quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

Các hoạt động thương mại, du lịch, tài chính, tín dụng, ngân hàng được Tỉnh ủy hết sức quan tâm. Năm 1992, Ban Thường vụ đã bàn chỉ đạo việc chấn chỉnh, đổi mới thương nghiệp quốc doanh; năm 1993 thông qua đề án phát triển du lịch đến năm 2000. Cũng trong năm 1993, Ban Thường vụ chỉ đạo làm thí điểm quỹ tín dụng nhân dân; năm 1995 cho triển khai mở rộng kể cả quỹ tín dụng khu vực. Do đó, đã hình thành hệ thống ngân hàng thương mại, khai thác nhanh nguồn vốn, mở rộng đối tượng thành phần cho vay, bước đầu có sự cạnh tranh giữa ngân hàng thương mại và quỹ tín dụng nhân dân, làm tăng thêm tính năng động của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 1995, tổng nguồn vốn huy động được ở địa phương đạt 592 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay 963 tỷ đồng. Dư nợ cho vay kinh tế quốc doanh là 427 tỷ đồng, chiếm 44,33%. Dư nợ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh là 537 tỷ đồng, chiếm 55,67%, trong đó dư nợ cho vay hộ nông dân là 359 tỷ đồng, chiếm 66,85% so với dư nợ cho vay ngoài quốc doanh. Công tác quản lý thu chi tiền mặt có tiến bộ, phương tiện thanh toán được cải tiến, chấm dứt được tình trạng thường xuyên căng thẳng về tiền mặt như những năm 1990 trở về trước.

Kinh tế phát triển đã tạo điều kiện cho đời sống văn hóa xã hội nông thôn khởi sắc. Nhu cầu ăn, ở, mặc, học hành, đi lại, phương tiện nghe nhìn được đáp ứng khá hơn. Đến hết năm 1995 có 63% số xã, 70% số dân được dùng điện, trong mạng điện lưới quốc gia.

Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các ngành thường xuyên chăm lo các gia đình thương binh, liệt sĩ, các gia đình có công với cách mạng. Cuộc vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng Nhà tình nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, phong trào xóa đói giảm nghèo, các hoạt động từ thiện giúp đỡ người tàn tật, được toàn dân quan tâm hưởng ứng đem lại kết quả thiết thực. Trong hai năm 1993-1994, tỉnh đã huy động hơn 2 tỷ đồng, tặng hơn 5.000 sổ tiết kiệm, xây dựng 175 Nhà tình nghĩa với hơn 700 triệu đồng để tặng các gia đình chính sách. Các huyện làm tốt công tác này là Vĩnh Lạc, Lập Thạch, Mê Linh…

Công tác giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân số - kế hoạch hóa gia đình và hoạt động khoa học kỹ thuật, môi trường từng bước được xã hội hóa, huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội đầu tư.

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Trung ương Đảng khóa VII xác định giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 12-NQ/TW “Về phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh đến năm 2000”. Sau quá trình triển khai thực hiện, ngành giáo dục đào tạo của tỉnh có bước phát triẻn mới. Quy mô giáo dục đào tạo các ngành học, cấp học từ giáo dục mầm non đến giáo dục chuyên nghiệp đều tăng so với trước. So với kế hoạch của tỉnh giao, học sinh mẫu giáo và phổ thông đều vượt trên 100%, riêng nhà trẻ đạt 97% kế hoạch. Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình trường lớp, ngành mầm non đã phát triển nhiều nhóm trẻ gia đình, hình thành các lớp mẫu giáo dân lập, tư thục. Ngành học phổ thông được tỉnh cho mở 4 trường bán công trung học phổ thông, hai trường chuyên trung học cơ sở và hai trường phổ thông dân lập nội trú; duy trì và mở thêm các lớp hệ B, bán công. Việc thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường lớp đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Năm 1992, Vĩnh Phú là một trong sáu tỉnh trên cả nước được công nhận đã hoàn thành việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.

Ngoài việc quan tâm mở rộng đa dạng các loại hình trường lớp, tỉnh còn chú trọng tới việc xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Bằng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh, nguồn vốn của Trung ương, kinh phí của các địa phương và sự đóng góp của nhân dân, nhiều trường học được nâng cấp và xây mới. Trong số 40 trường trung học phổ thông đã có 19 trường có nhà cao tầng. Nhiều trường trung học cơ sở, trường tiểu học ở Vĩnh Lạc, Tam Đảo, Mê Linh đã có nhà học cao tầng.

Ngành y tế cũng có những chuyển biến nhất định. Mạng lưới y tế bước đầu đáp ứng được nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, tuyến y tế cơ sở từng bước được củng cố. Y học hiện đại kết hợp với y học cổ truyền, bảo hiểm y tế và dịch vụ khám chữa bệnh phát triển, việc tiêm chủng mở rộng được thực hiện tốt nên đã ngăn chặn được dịch bệnh. Công tác chăm sóc bảo vệ bà mẹ, trẻ em có chuyển biến bước đầu. Công tác truyền thông dân số và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được đáp ứng kịp thời. Tỷ lệ phát triển dân số của tỉnh từ 2,25% năm 1991 giảm xuống còn 1,79% năm 1995.

Đời sống văn hóa có nhiều khởi sắc. Cùng với việc lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc vận động “Xây dựng xã, phường, thị trấn, khu dân cư văn hóa” và “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, cấp ủy và chính quyền các địa phương từng bước cho bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, nhằm phục vụ tốt hơn công tác giáo dục truyền thống cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

Các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh và truyền hình, văn hóa, văn nghệ, đã bám sát chủ trương của Đảng và Nhà nước, nêu gương các nhân tố mới và điển hình tiên tiến; đồng thời phê phán các hiện tượng tiêu cực, đấu tranh chống tham nhũng, góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Trong thời gian này, tỉnh đã đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh, báo Đảng để phục vụ tốt hơn các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, công tác củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thường xuyên được coi trọng. Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết về công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với quốc phòng, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân trên địa bàn, bảo đảm thường xuyên sẵn sàng chiến đấu, điều chỉnh kế hoạch phòng thủ, bổ sung và diễn tập các phương án phòng chống âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa nình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Trong những năm 1991-1995, cơ quan quân sự các cấp thường xuyên tổ chức những lớp huấn luyện kỹ thuật chiến đấu cơ bản cho các đối tượng bằng các phương án phù hợp với thực tế tình hình địa phương. Thông qua các đợt diễn tập, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang toàn tỉnh được nâng cao. Hàng năm, địa phương đều hoàn thành tốt công tác tuyển quân, củng cố xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Năm 1995, lực lượng dân quân tự vệ toàn tỉnh chiếm 1,7% tổng số dân, trong đó tỷ lệ đảng viên chiếm 18%.

Công tác giữ gìn an ninh và trật tự xã hội được tăng cường. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân thường xuyên phát động phong trào quần chúng tự quản bảo vệ an ninh, trật tự, tăng cường lãnh đạo đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật theo tinh thần Chỉ thị 29 của Ban Bí thư, tập trung xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch vững mạnh; đồng thời coi trọng chủ đạo giáo dục tuyên truyền pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Do vậy, các phong trào tấn công truy quét, phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội, ngăn chặn phát tán các tài liệu có nội dung phản động, kiềm chế các hoạt động trái phép của các phần tử lợi dụng tôn giáo thu được nhiều kết quả, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác chống tham nhũng buôn lậu, thực hành tiết kiệm được triển khai từ tỉnh đến cơ sở. Các cơ quan chức năng tập trung rà soát những lĩnh vực quan trọng như cấp phát ngân sách, quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, các hợp đồng kinh tế…Từ năm 1994 đến tháng 6-1995, ngành thanh tra và kiểm sát đã thanh tra, kiểm tra ở 685 đơn vị kinh tế-xã hội, phát triển kiến nghị 1.198 ý kiến với các đơn vị chủ quản để chấn chỉnh những sơ hở và thiếu sót trong quản lý  nhà nước và quản lý kinh tế-xã hội, thu hồi 8,1 tỷ đồng/19,9 tỷ đồng bị thiệt hại, 1.050 ha/4.538 ha đất bị lấn chiếm, xử lý hành chính 1.317 người vi phạm, truy tố 34 đối tượng. Tuy nhiên, tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, tiêu dùng lãng phí vẫn còn là những vấn đề bức xúc, cần được tiếp tục xử lý.

Quán triệt quan điểm xây dựng kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, Tỉnh ủy đặc biệt chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tỉnh ủy đã tổ chức quán triệt các văn kiện Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ và Nghị quyết các Hội nghị lần thứ 2,3,4,5,7,8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ tỉnh đến cơ sở nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng trong sự nghiệp đổi mới.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về “Đổi mới và chỉnh đốn Đảng”, ngày 18/8/1992, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Đề án số 03 và ngày 16/12/1992, ban hành Kế hoạch số 05 xác định rõ yêu cầu, mục tiêu và nội dung các bước tiến hành để các huyện, thành, thị, các Đảng ủy trực thuộc hướng dẫn các chi, đảng bộ thực hiện. Ban Thường vụ Tỉnh ủy chọn Đảng bộ Tam Đảo làm điểm chỉ đạo. Các huyện, thành, thị ủy trực thuộc chọn 2-3 đảng bộ cơ sở chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm triển khai ra diện rộng. Thực hiện kế hoạch của Tỉnh ủy, các huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc chỉ đạo các cấp ủy cơ sở tổ chức quán triệt Nghị quyết Trung ương đến cán bộ, đảng viên. Toàn Đảng bộ có 84,5% đảng viên được học tập, thảo luận. Qua học tập, tuyệt đại cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình nhất trí cao với nhận định đánh giá của Trung ương về công tác xây dựng Đảng, về những chủ trương biện pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Nhờ đó mà cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, nâng cao vai trò, trách nhiệm đảng viên trên cương vị công tác được giao.

Tháng 8/1993, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục phổ biến, quán triệt Chỉ thị số 23 về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tỉnh hình mới, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ hơn âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của đế quốc và các thế lực phản động, kích động bạo loạn gây rối làm cản trở công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta. Từ đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân có sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, có ý thức cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù; đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật trong bảo vệ Đảng.

Tỉnh ủy cũng tăng cường lãnh đạo đối với công tác báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, văn hóa-nghệ thuật. Báo Vĩnh Phúc đã mở rộng khổ báo và tăng số kỳ phát hành, Đài Phát thanh-Truyền hình của tỉnh tăng giờ phát sóng, tập san chi bộ ở cơ sở được hướng dẫn sử dụng…Nhờ công tác tuyên truyền đúng hướng, thường xuyên nên tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh được ổn định, lành mạnh, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước ta.

Công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng được đặc biệt quan tâm. Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ban Tổ chức, các ban xây dựng Đảng phối hợp với các huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc tiến hành khảo sát thực trạng tình hình hoạt động của các loại hình chi Đảng bộ cơ sở. Toàn tỉnh có 1.149 cơ sở Đảng, trong đó khối xã, phường chiếm 36%, cơ quan hành chính sự nghiệp 19,3%, doanh nghiệp nhà nước 22%, khối lực lượng vũ trang 4,8%, giáo dục y tế 10%; cơ sở khác 7,7%. Nhằm khắc phục tình trạng tỷ lệ đảng viên sinh hoạt chi bộ thấp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, Tỉnh ủy một mặt đã chỉ đạo tổ chức sắp xếp các chi bộ Đảng ở xã, phường theo địa bàn dân cư thích hợp với nhiệm vụ chính trị trong tỉnh hình mới, bí thư chi bộ kiêm trưởng khu hành chính, mặt khác đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.

Sau hơn ba năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng có nhiều chuyển biến rõ rệt, ưu điểm nổi bật là đã phát huy được vai trò lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, đã tạo nên sự chuyển biến đáng kể về kinh tế- xã hội. Nhiều chi, đảng bộ cơ sở và đảng viên năng động, sáng tạo vận dụng cơ chế, chính sách mới có hiệu quả, phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên và năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng. phong trào xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh có tiến bộ rõ rệt. Tỉnh ủy đã mở hội nghị hướng dẫn, quán triệt đến các huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc Hướng dẫn số 416 của Ban Tổ chức Trung ương về xây dựng chi, Đảng bộ vững mạnh. Hầu hết các cơ sở đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập, rà soát lại từng tiêu chuẩn. Số tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh hàng năm đều tăng. Năm 1992 đạt 26,6% tăng 4,4% so với năm 1991; Năm 1993 đạt 34,9% tăng 8,5% so với năm 1992; năm 1994 đạt 40%, tăng 5,1 so với năm 1993. Số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém giảm đi (Đảng bộ Lập Thạch năm 1994 còn 8,6% cơ sở yếu kém, giảm 3,4% so với năm 1992).

Để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên và tổ chức cơ sở đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, từ tình đến huyện, thành, thị và cơ sơ đã tiến hành rà soát, sắp xếp lại cơ quan đảng, chính quyền và đoàn thể theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Đối với cơ quan đảng, cấp tỉnh thành lập Ban Dân vận, Ban Nội chính, Phòng bảo vệ chính trị nội bộ (nằm trong Ban Tổ chức Tỉnh ủy). Các huyện, thành, thị ổn định hệ thống tổ chức, nhưng biên chế giảm tử 730 xuống còn 594 người. Các đoàn thể nhân dân giảm từ 492 người xuống còn 411 người. Cơ quan quản lý nhà nước và sự nghiệp giảm 16% so với biên chế năm 1991. Cơ sở xã, phường giảm biên chế gián tiếp khoảng 30% so với năm 1991.

Nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Tỉnh ủy chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Quyết định số 62 ngày 15/3/1993 của Ban Bí thư về thành lập Ban cán sự Đảng và Đảng đoàn các cấp. Toàn tỉnh đã thành lập 91 Ban cán sự Đảng và Đảng đoàn, trong đó cấp tỉnh 26 Ban cán sự Đảng và 7 Đảng đoàn, cấp huyện 12 Ban cán sự Đảng và 59 Đảng đoàn. Nhiều Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn cấp tỉnh đã nhanh chóng xây dựng được quy chế làm việc. Hoạt động của Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng đoàn bước đầu có hiệu quả. Mối quan hệ giữa ngành và cấp, giữa Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng với các cấp ủy huyện, thành, thị có sự phối hợp chặt chẽ hơn, tạo được sự nhất trí trong công tác đánh giá, sắp xếp và bố trí cán bộ của ngành. Các Ban cán sự ở Sở Giáo dục và Đào tạo, Cục thuế, Sở Thủy lợi, Sở Giao thông vận tải, Ngân hàng tỉnh và Đảng đoàn, Hội Phụ nữ tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh,…hoạt động tốt.

Công tác nâng cao chất lượng đảng viên và cấp ủy cũng được hết sức coi trọng. Hàng năm, Tỉnh ủy tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng cho các cấp ủy, bí thư chi bộ và trưởng khu hành chính. Các huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc đã chỉ đạo các chi bộ đảng cơ sở tiến hành phân loại đảng viên theo Chỉ thị số 14 của Ban Bí thư. Kết quả là trong số 92,13% số đảng viên dự phân loại, đảng viên loại 1 chiếm 71,3%, loại 2 chiếm 16,55%, loại 3 chiếm 11,33%, loại 4 chiếm 0,82%. Số đảng viên đủ tư cách phấn đấu tốt hàng năm tăng từ 5 đến 6%. Những đảng viên già yếu, ốm đau thường xuyên, hoàn cảnh khó khăn tự nguyện có đơn xin miễn hoãn sinh hoạt được cấp giấy chứng nhận đảm bảo đúng nguyên tắc, Điều lệ Đảng.

Công tác phát triển đảng viên mới được các cấp ủy Đảng xác định là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên và tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Nghị quyết chuyên đề về công tác phát tiển Đảng. Trong 5 năm 1991-1995, toàn tỉnh đã kết nạp 7.660 đảng viên mới. Trên 50% số đảng viên mới kết nạp là lực lượng trẻ, có trình độ văn hóa và chuyên môn khá.

Bên cạnh việc phát triển đảng viên, các tổ chức Đảng cũng chú trọng xem xét, xử lý đảng viên vi phạm kỷ luật. Trong 5 năm 1991-1995 có 8.264 đảng viên bị xử lý kỷ luật, bằng 8,8% so với tỏng số đảng viên toàn tỉnh, trong đó khiển trách 3.102 (bằng 37,5%), cảnh cáo 3.887 (bằng 47%), cách chức 387 (bằng 4,68%), khai trừ 888 (bằng 10,7%), đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác 4,2%.

Sau triển khai Nghị quyết Trung ương ba, công tác cán bộ có sự đổi mới một bước quan trọng, lấy hiệu quả công việc và phẩm chất chính trị làm thước đo, tuân thủ quy trình quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng, đánh gián cán bộ, tôn trọng nguyên tắng tập trung dân chủ, tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Từ 1992 đến năm 1995, số cán bộ thuộc diện Tỉnh ủy quản lý đã được đề bạt và bố trí lại là 37 đồng chí, trong đó có 13 đồng chí trưởng ngành tỉnh. Cấp huyện điều động và đề bạt 257 đồng chí thuộc cấp ủy quản lý. Số cán bộ mới được đề bạt đều phát huy tác dụng tốt, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị.

Công tác đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ, đảng viên có nhiều tiến bộ. Năm 1992, Tỉnh ủy đã tiến hành khảo sát, xây dựng đề án tổ chức sắp xếp lại hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh, huyện trên cơ sở hợp nhất Trường Đảng tỉnh, Trường Hành chính tỉnh và Trường Đào tạo cán bộ đoàn thể ở tỉnh thành Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh (nay là Trường Chính trị tỉnh). Các trường ở huyện, thành, thị cũng tiến hành sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, từng bước phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo của trường được nâng lên rõ rệt. Năm 1994, Trường đã đào tạo bồi dưỡng 10.750 cán bộ, với các chương trình lý luận chính trị cao cấp, trung cấp, nghiệp vụ công các Đảng, đoàn thể…Ngoài ra, Tỉnh ủy còn cử 60 cán bộ đi học ở các trường trung ương về các ngành quản lý kinh tế, quản lý nhà nước…Trình độ đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành đã được nâng lên, nhất là về tư duy kinh tế, dần dần thích ứng với vơ chế mới.

Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú tổ chức Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ (khóa VII) từ ngày 7 đến 9-3-1994 nhằm tập trung nghiên cứu, quán triệt và tiếp thu Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ; kiểm tra tình hình ba năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa VII, đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp trong những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII. Hội nghị bầu bổ sung 2 Ủy viên Thường vụ và  5 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VII.

Tỉnh ủy đặc biệt quan tâm tới việc lãnh đạo, củng cố chính quyền nhân dân các cấp, đặc biệt là lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc lựa chọn đại biểu vào Quốc hội, lựa chọn cán bộ chủ chốt vào Hội đồng nhân dân  tỉnh và Hộ đồng nhân dân huyện, thành, thị. Tỉnh ủy luôn chú ý lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân các cấp. Tháng 11-1994, Tỉnh ủy đã lãnh đạo thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phú khóa VIII, nhiệm kỳ (1994-1999) với 74 đại biểu trúng cử. Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, Hội đồng nhân dân các cấp đã có tiến bộ trong nội dung và phương pháp hoạt động, từng bước pháy huy được vai trò cơ quan quyền lực địa phương; chức năng kiểm tra, giám sát được tăng cường hơn. Ủy ban nhân dân các cấp có nhiều đổi mới trong công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, điều hành nền kinh tế, xã hội bằng các chương trình kế hoạch và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, cụ thể hóa các chủ trương chính sách, pháp luật Nhà nước. Công tác điều tra, khảo sát, quy hoạch, xây dựng các dự án kinh tế, các chương trình xã hội được thực hiện tốt. Việc bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ công chức, viên chức nhà nước và giải quyết đơn thư có những chuyển biến tích cực. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, các ngành nội chính, các đoàn thể nhân dân giữ vững và tăng cường. Tháng 10-1995, tỉnh đã thực hiện việc chia tách huyện Yên Lạc và huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc theo Nghị định 63-N Đ/CP của Chính Phủ.

Công tác vận động quần chúng, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cũng từng bước được đổi mới.

Quán triệt Nghị quyết số 8B của Trung ương "Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân", các cấp ủy Đảng, chính quyền dành nhiều thời gian để bàn về công tác dân vận, gắn việc chỉ đạo thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội với công tác dân vận động quần chúng. Tỉnh ủy, huyện ủy, thành ủy và thị ủy đã phân công cấp ủy viên và cán bộ phụ trách công tác dân vận, tạod điều kiện vật chất và môi trường pháp lý cho các hoạt động quần chúng. Nhiều phong trào quần chúng đã được chỉ  đạo chặt chẽ và thu được kết quả tốt như phong trào "Nông dân thi đua sản xuất giỏi","xóa đói giảm nghèo", "Đền ơn đáp nghĩa", "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước"v.v…Tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân luôn được củng cố và kiện toàn. Nội dung và phương thức hoạt động tiến bộ theo hướng đổi mới và phát triển. Các hình thức tập hợp quần chúng từng bước đa dạng hóa, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Các nội dung quần chúng, hội nghề nghiệp phát triển đa dạng với nhiều hình thực tập hợp hoạt động, đáp ứng sở thích, nguyện vọng của quần chúng. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả của phong trào quần chúng chưa vững chắc, chưa toàn diện và liên tục. Hoạt động của các đoàn thể nhân dân còn nhiều lúng túng. Tỷ lệ tập hợp, thu hút đoàn viên, hội viên còn thấp.

Năm 1996, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phú có nhiều chuyển biến rõ rệt, cần phải xác định phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện đáp ứng với yêu cầu mới. Từ ngày 3 đến ngày 6-5-1996, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ tỉnh. Tham dự Đại hội có 349 đại biểu thay mặt gần 9,5 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Với tinh thần thẳng thắn, dân chủ, Đại hội đã thảo luận sôi nổi Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhần trí cao về đánh giá tình hình các mặt trong những năm 1991 -1995, về mục tiêu phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp lớn cho 5 năm 1996-2000. Đại hội khẳng định trong 5 năm 1991-1995, nền kinh tế, xã hội của tỉnh có bước phát triển tương đối toàn diện trên các lĩnh vực, đạt mức tăng trưởng khá so với nhiệm kỳ trước; việc xây dựng kết cấu hạ tầng được đẩy mạnh, nhiều công trình mới được đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả; đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện; trình độ dân trí được nâng cao; cơ chế kinh tế mới được khẳng định, văn hóa xã hội có những bước tiến bộ nhất định; công tác quốc phòng được củng cố; an ninh chính trị được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân đã có những đổi mới tiến bộ. Đại hội cũng nghiêm khắc chỉ ra những mặt hạn chế và tồn tại: nền kinh tế hàng hóa chậm phát triển, hiệu quả chưa cao, đời sống nhân dân còn thấp và chênh lệch giữa các vùng, các giai tầng xã hội; các mặt hoạt động văn hóa còn nhiều yếu kém, tiêu cực xã hội chưa bị đẩy lùi; việc đổi mới hệ thống chính trị, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ còn bất cập so với tình hình nhiệm vụ mới đòi hỏi. Trên cơ sở phân tích sâu sắc những thành tựu, hạn chế, căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương. Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới.

Đại hội đề ra phương hướng phát triển  kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm 1996-2000 là: "Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ vượt qua khó khăn thử thách,  đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ; khai thác triệt để các tiềm năng thế mạnh, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và vững chắc; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, ổn định chính trị, giảm dần tiêu cực, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái...để đưa tỉnh ta sớm vượt qua tỉnh trạng nghèo, kém phát triển, cải thiện một bước đời sống nhân dân, xóa hội đói, tăng hộ giàu, giảm mạnh hộ nghèo, nâng cao tích lũy nội dung nền kinh tế, tạo tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000".

Đại hội đề ra một số mục tiêu và chỉ tiêu chủ yếu; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 1996-200 là 11-12%, GDP bình quân đầu người khoảng 290 USD; tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 15-17%; tổng giá trị ngoại tệ xuất khẩu đạt 50 triệu USD vào năm 2000, trong đó phần xuất khẩu của Trung ương và địa phương chiếm khoảng 50%; tốc độ tăng bình quân nông, lâm nghiệp 4,5% trở lên, sản lượng lương thực đạt 68-70 vạn tấn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp đến mức cần thiết (nông, lâm nghiệp chiếm trong GDP từ 42,85% (1995) xuống còn 29,30% (2000)); công nghiệp và xây dựng từ 22,65% (1995) lên 30,7% (2000), dịch vụ từ 34,5% (1995) lên 40% (2000); tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1,7% vào năm 2000.

Để thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội trên, Đại hội đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là:

- Phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa và phát triển bền vững. Tập trung phát triển mạnh các vùng sản xuất hàng hóa, đưa nhanh công nghệ sinh học vào sản xuất.

- Phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp quan trọng là chế biến nông, lâm sản, sản xuất nguyên liệu và vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Quy hoạch phát triển nhanh các khu công nghiệp mới tập trung ở Mê Linh, Vĩnh Yên, Tam Đảo.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị và phát triển dịch vụ. Đổi mới hoạt động tài chính, ngân hàng, thương mại dịch vụ và kinh tế đối ngoại.

- Phát triển các thành phần kinh tế, đảm bảo cho các thành phần kinh tế bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật.

- Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Hướng chính sách văn hóa xã hội vào việc chăm sóc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành trong việc củng cố xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị.

- Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên, tiếp tục chỉnh đốn hệ thống tổ chức Đảng tạo bước chuyển quan trọng về công tác cán bộ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú khóa VIII gồm 47 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí. Đồng chí Bùi Hữu Hải được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Nguyễn Văn Lâm, Hoàng Xuân Cừ được bầu làm Phí Bí thư Tỉnh ủy.

Sau bốn ngày làm việc tích cực khẩn trương với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú thành công tốt đẹp. Kết quả của Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng về trình độ tư duy, nhận thức, trí tuệ của Đảng bộ trong việc vận dụng sáng tạo và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chích sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương.

Từ ngày 27/6 đến ngày 01/7/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội tuy còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội nêu rõ phương hướng của cách mạng nước ta là tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thàh một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Đại hội VII của Đảng đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phú tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới ở địa phương.

Mười năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-1996) trong hoàn cảnh đất nước phải trải qua muôn vàn khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phú đã đoàn kết một lòng vượt qua thử thách, giành được những thành tựu rất quan trọng. Kinh tế phát triển tương đối toàn diện và đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên, nông, lâm nghiệp giảm xuống; cơ chế kinh tế mới được khẳng định và đem lại hiệu quả rõ rệt. Nhiều công trình quan trọng được xây dựng và đưa vào sử dụng phục vụ đắc lực nền kinh tế, xã hội của tỉnh. Văn hóa, xã hội một số mặt có chuyển biến tích cực. Công tác quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội có những mặt tiến bộ. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân có sự đổi mới bước đầu. Đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế Vĩnh Phú vẫn còn nhiều yếu tố chưa ổn định vững chắc, việc phát triển kinh tế hàng hóa còn chậm. Tỷ lệ lao động chưa có và thiếu việc làm còn khá lớn. Các dịch vụ về y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao chưa đáp ứng yêu cầu. Những hạn chế đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh phải nhanh chóng khắc phục và nỗ lực nhiều hơn để bước vào thời kỳ mới-thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

   
   
   
Số bản ghi trên trang  
1-2 / 2 bản ghi

Số lượt truy cập: 89.590.826

EMC Đã kết nối EMC