Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh cùng với sự tăng trưởng mạnh về kinh tế trong những năm qua đã có những tác động đến môi trường, làm cho chất lượng môi trường có chiều hướng giảm, ảnh hưởng đến đời sống, sức khoe của nhân dân và sự phát triển bền vững của tỉnh; sự ô nhiễm môi trường không khí ở các đô thị, khu công nghiệp…có nguy cơ gia tăng; chất lượng môi trường nước mặt và nước ngầm giảm; lượng chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp tăng nhanh và chưa có biện pháp xử lý hiệu quả. Tỷ lệ thu gom rác thải ở các đô thị đều rất thấp, chỉ đạt khoảng 40 đến 60% tổng lượng thải. Hầu hết chất thải y tế ở các bệnh viện, các cơ sở y tế chưa được thu gom và xử lý theo quy định; chất lượng đất đang có chiều hướng suy thoái do xói mòn, rửa trôi, lũ lụt…ở vùng trung du miền núi. Cho đến nay, Vĩnh Phúc vẫn chưa có bãi xử lý, chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp. Việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt được thực hiện một cách quy mô mới chỉ có ở hai thị xã Vĩnh Yên và Phúc Yên với tỷ lệ khoảng 60% tổng lượng thải của hai thị xã. Trên địa bàn tỉnh có nhiều khu du lịch với nhiều loại hình khác nhau tập trung ở khu vực Tam Đảo – Tây Thiên, Hồ Đại Lải và Đầm Vạc…cơ sở hạ tầng tại các khu vực này chưa được đầu tư thích đáng. Các khu, cụm công nghiệp hầu hết đều ở tình trạng vừa hoàn thiện quy hoạch, vừa thu hút dự án đầu tư, vừa xây dựng kết cấu hạ tầng, chưa có trạm trung chuyển chất thải rắn và khu xử lý nước thải tập trung. Vẫn còn tồn tại nhiều cơ sở công nghiệp cũ với công nghệ lạc hậu nằm xen kẽ trong khu dân cư , gây ô nhiễm. Bên cạnh đó, vấn đề cung cấp nước sạch, xử lý chất thải và điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều vùng nông thôn còn kém, ý thức tự giác bảo vệ môi trường còn chua cao; chặt phá rừng, cháy rừng, săn bắt đã làm ảnh hướng đến hệ sinh thái. Truớc tình hình đó, để đảm bảo cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì tỉnh phải có những biện pháp bảo vệ môi trường như hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục tình trạng suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường; giải quyết cơ bản tình trạng suy thoái môi trường ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu du lịch, làng nghề và một số khu vực nông thôn. Cải tạo và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số lưu vực nước mặt ở các đô thị lớn; 100% cơ sở sản xuất mới xây dựng phải được trang bị và lắp đặt các thiệt bị xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường; 100% hộ gia đình ở các đô thị, 70% doanh nghiệp và 80% khu vực công cộng có dụng cụ thu gom và phân loại rác giải; có bãi chôn lấp, xử lý chất thải sinh hoạt và công nghiệp đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường; 100% khu công nghiệp, cụm công nghiệp và Thị xã Vĩnh Yên, Phúc Yên có hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; 100% các bệnh viện có hệ thống thu gom và xử lý nước thải; 95% dân số đô thị, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh; 90% đường phố có cây xanh; nâng tỷ lệ đất công viên ở các khu đô thị lên gấp 2 lần so với năm 2000; đưa chất lượng nước các lưu vực sông đạt mức tiêu chuẩn chất lượng nước dùng cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; phục hồi 50% các khu vực khai thác khoáng sản, 50% các hệ sinh thái vùng đệm Vườn Quốc gia Tam Đảo. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền , phổ biến các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là tổ chức quán triệt các nội dung Nghị quyết số 41-NQ/TW để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng đối với công tác bảo vệ môi trường.
Thu Thủy
(Cổng thông tin điện tử)