Xác định xây dựng và phát triển chính quyền số là yếu tố then chốt trong chiến lược cải cách hành chính, góp phần cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Vĩnh Phúc đã và đang tập trung hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, điều hành, triển khai thực hiện nhiệm vụ, làm đổi mới căn bản hoạt động của bộ máy chính quyền, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Cùng với phát triển kinh tế số và xã hội số, chính quyền số được xác định là một trong ba trụ cột ưu tiên hàng đầu trong công cuộc chuyển đổi số của tỉnh. Đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính quyền số, tỉnh đã ban hành nhiều đề án, kế hoạch, văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, trong đó xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm như tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng số, nền tảng số, thông tin số và dữ liệu số; xây dựng thể chế số, củng cố an toàn thông tin, an ninh mạng; đẩy mạnh tuyên truyền, tạo sự thống nhất, quyết tâm của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quyền số. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, sát sao của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; sự vào cuộc tích cực của các sở, ngành, địa phương, người dân và doanh nghiệp, công cuộc xây dựng chính quyền số của tỉnh từng bước đi vào thực chất, góp phần thay đổi phong cách làm việc của các cấp lãnh đạo, cán bộ, công chức, doanh nghiệp, bảo đảm tính khoa học, nhanh chóng, chính xác, minh bạch, hiện đại, nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp của các cơ quan Nhà nước. Trên địa bàn tỉnh hiện có 5 nhà cung cấp dịch vụ điện thoại và 5 nhà cung cấp dịch vụ Internet. Sóng di động mạng 3G, 4G đã phủ 100% khu vực trên địa bàn tỉnh, đã có hơn 60 trạm 5G của Viettel và VNPT. 100% cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị 3 cấp tỉnh - huyện - xã đã được trang bị máy tính, mạng LAN, kết nối Internet băng thông rộng cố định để phục vụ công tác chuyên môn; đã thực hiện kết nối đường truyền số liệu chuyên dùng đến 169 đơn vị, địa phương, đồng bộ đến cấp xã. Hiện tại, Trung tâm Dữ liệu của tỉnh có tổng số hơn 60 máy chủ vật lý (gần 120 máy chủ ảo) vẫn đang được vận hành thông suốt và cơ bản đáp ứng nhu cầu triển khai ứng dụng chuyên ngành của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Hệ thống hội nghị đã được triển khai Tỉnh ủy, UBND tỉnh, một số sở, ban, ngành, 9/9 huyện, thành phố và 100% xã, phường, thị trấn bảo đảm triển khai các cuộc họp trực tuyến từ Trung ương đến 3 cấp của tỉnh và các cuộc họp triển khai nội bộ của tỉnh. Nền tảng chia sẻ, tích hợp dùng chung tỉnh Vĩnh Phúc được cài đặt, vận hành tại trung tâm dữ liệu của tỉnh, đã thiết lập, kết nối với Trục liên thông văn bản quốc gia, Cổng thanh toán tập trung quốc gia và gần 20 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan Trung ương và địa phương. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh Vĩnh Phúc đã hoàn thiện tính năng số hóa hồ sơ, kết nối với kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên Cổng dịch vụ công quốc gia và triển khai kết nối hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh với 23 hệ thống thông tin, thiết bị. Ngoài ra, hệ thống quản lý văn bản và điều hành được triển khai đồng bộ về kỹ thuật trên cùng một nền tảng cho 100% các cơ quan Đảng và Nhà nước với hơn gần 1.000 đầu đơn vị từ cấp tỉnh đến cấp xã và gần 11.000 tài khoản sử dụng; đã thực hiện liên thông với Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành qua Trục liên thông văn bản quốc gia, bảo đảm tích hợp chữ ký số chuyên dùng công vụ Chính phủ.

Công chức Bộ phận "Một cửa" xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên hướng dẫn người dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến
Về phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, toàn tỉnh có 3.119 cán bộ, công chức, viên chức làm chuyên trách và kiêm nhiệm chuyển đổi số, 149 công chức, viên chức làm chuyên trách và kiêm nhiệm về an toàn thông tin; 1.240 Tổ Công nghệ cộng đồng và Đề án 06 với 9.880 thành viên. Cùng với đó, 92,96% hệ thống thông tin được phê duyệt cấp độ an toàn thông tin. Trong đó, số lượng các hệ thống thông tin được phê duyệt theo cấp độ là 7 hệ thống cấp độ 3; 57 hệ thống cấp độ 2; 2 hệ thống cấp độ 1. Hoạt động giám sát an toàn thông tin được thực hiện liên tục trên không gian mạng, thường xuyên giám sát, rà và chia sẻ thông tin giám sát an toàn thông tin về Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia theo mô hình bảo đảm an toàn thông tin 4 lớp.
Đến nay, toàn tỉnh có 762.284 tài khoản định danh điện tử được kích hoạt trên tổng số 980.226 công dân trên 14 tuổi, đạt tỷ lệ 77% người dân đủ điều kiện, là một trong những tỉnh có tỷ lệ kích hoạt tài khoản định danh điện tử cao nhất cả nước. 100% các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã thực hiện nâng cấp phần mềm khám chữa bệnh HIS và đầu tư thiết bị để phục vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp hoặc ứng dụng VneID với số lượng căn cước công dân được đồng bộ với thẻ bảo hiểm y tế là 1.080.997 người. Ngoài ra, toàn tỉnh đã nhập 518.329 dữ liệu hộ tịch vào hệ thống hộ tịch của Bộ Tư pháp; tổng số thửa đất đã được chuẩn hóa, làm giàu, làm sạch dữ liệu về đất đai, thông tin nhà ở là 506.597/1.446.292 thửa, đạt trên 35% so với kế hoạch.
Tính đến ngày 24/12/2024, trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh có 740 tài khoản cán bộ, công chức tại bộ phận một cửa có quyền khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó có 528 tài khoản cán bộ, công chức tại bộ phận một cửa thường xuyên sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đã có 124.320 lượt khai thác thông tin công dân từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và các nhiệm vụ công tác chuyên môn. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh hiện có 1.865 dịch vụ công, trong đó có 954 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 645 dịch vụ công trực tuyến một phần và 266 dịch vụ cung cấp thông tin. 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Đồng thời, đã tích hợp 1.563 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, trong đó có 619 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 417 dịch vụ công trực tuyến một phần. Đến nay, đã cấp 2.659 chứng thư số chuyên dùng Chính phủ cho 39 cơ quan, đơn vị, bao gồm 2.164 chứng thư số cá nhân, 495 chứng thư số cơ quan; đã đăng ký cấp 104 Sim PKI cho lãnh đạo của 22 cơ quan, đơn vị; đã cấp 3.381 chứng thư số cá nhân sử dụng giải pháp ký số tập trung cho giáo viên để thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong Giáo dục và Đào tạo”.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng chính quyền số trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế nhất định. Trước hết, nhận thức và quyết tâm của người đứng đầu các đơn vị mặc dù có thay đổi tích cực nhưng chưa đủ chuyển hóa thành hành động để lan tỏa đến cán bộ cấp dưới; thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát nên kết quả một số mặt chưa đạt yêu cầu đề ra. Hạ tầng công nghệ số của tỉnh vẫn chưa thực sự tiếp cận công nghệ hiện đại, Trung tâm Dữ liệu tỉnh chưa thực sự ứng dụng điện toán đám mây mà đang dừng ở công nghệ ảo hóa. Một số ngành, lĩnh vực chưa hoàn thiện việc triển khai xây dựng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của tỉnh để sẵn sàng chuyển đổi phương pháp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của cán bộ, công chức, viên chức từ truyền thông lên trên môi trường số. Một số ứng dụng triển khai thử nghiệm đạt hiệu quả cao, thiết thực tuy nhiên còn chậm tổ chức thực hiện đầu tư chính thức. Công nghiệp công nghệ thông tin vẫn còn chậm phát triển, chưa hình thành được khu công nghệ thông tin tập trung của tỉnh. Ngoài ra, phần lớn nhân lực công nghệ thông tin tại các đơn vị chủ yếu là kiêm nhiệm, bán chuyên trách nên gặp nhiều khó khăn trong việc quản trị, vận hành hệ thống công nghệ thông tin; chưa có cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực chưa có chất lượng cao về làm việc tại các đơn vị. Việc triển khai phương án bảo đảm an toàn thông tin của chác hệ thống thông tin sau khi được phê duyệt hồ sơ cấp độ còn chậm. Việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động sản xuất, kinh doanh còn khó khăn; tỷ lệ người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn thấp, nhất là vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số.
Xác định năm 2025 là năm phải thực hiện hoàn thiện chính quyền điện tử để hướng tới chính quyền số, tỉnh tiếp tục triển khai các phần mềm ứng dụng dùng chung, bảo đảm hoàn thành các mục tiêu tại Nghị quyết số 17/2019/NQ-CP của Chính phủ, Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; quản lý, vận hành hiệu quả hệ thống nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu dùng chung của tỉnh phục vụ kết nối nền tảng Chính phủ điện tử quốc gia; tích hợp các ứng dụng, dịch vụ và cơ sở dữ liệu dùng chung của tỉnh vào hệ thống. Đồng thời, kết nối, tích hợp các hệ thống dùng chung của tỉnh với các cổng thanh toán điện tử tập trung do các bộ, ngành Trung ương xây dựng; phát triển nền tảng cung cấp các dịch vụ trên thiết bị di động hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tra cứu, khai thác các hệ thống thông tin, dịch vụ công; triển khai hiệu quả các ứng dụng nền tảng số như: Hóa đơn điện tử, hồ sơ sức khỏe, định danh và xác thực điện tử, dạy học trực tuyến…
Phùng Hải
Phùng Hải